Biểu Mẫu

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16

hoatieu.vn xin gửi đến thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16 để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch BDTX module THPT16 là bài thu hoạch về giấy tờ dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT. Mời thầy cô cùng tham khảo cụ thể và tải về bài thu hoạch tại đây.

  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT (41 module)

Bài thu hoạch BDTX module THPT16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ………

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———————

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN

Module THPT16: Giấy má dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT

5 học: …………..

Họ và tên: ……………………….

Đơn vị:……………………………..

Giấy má dạy học là tập trung các kế hoạch, số sách, tài liệu chuyên môn của môn học được sẵn sàng trước theo sự chỉ huy của nhà trường và sự cắt cử của tổ chuyên môn giúp GV thực thi dạy học trong công đoạn công việc để đạt được tiêu chí chất lượng dạy học đã đề ra.

Việc đổi mới cách thức dạy học gắn liền với việc xây dựng và quản lí, bảo quản giấy tờ dạy các môn học ở các trường THPT đã được khai triển từ cách đây hàng chục 5. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chỉ dẫn xây dựng, quản lí sử dụng giấy tờ dạy học hầu như chưa có bước đổi mới nào đáng kể; thậm chí, 1 số GV và cán bộ quản lí chưa thông suốt và chưa xây dựng được những mục tiêu của 1 bài học theo ý thức đổi mới. Trước đề xuất đổi mới giáo dục 1 cách cơ bản và toàn diện buộc mọi GV phải tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Chúng ta sẽ nghiên cứu đổi mới dần dần từng giai đoạn 1 của việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học (nắm bắt tiêu chí bài học; xây dựng kế hoạch bài học theo ý thức mới; tổ chức cho HS hoạt động học tập…); tiến đến đổi mới hoàn toàn việc dạy và học các môn học ở cấp trưng học.

Lược đồ hệ thống giấy tờ dạy học của môn học gồm:

1. Giấy má tổ chuyên môn (CM) là tập trung các văn bản chỉ huy chuyên môn của các ngành, những tài liệu chuyên môn về chương trình, khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kĩnăng, tiêu chí của môn học; các kế hoạch cắt cử dạy học, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, đăng kí thi đua, đăng kí học tập tăng lên chuyên môn nghiệp vụ… Giấy má này do tổ trưởng chuyên môn chủ trì xây dựng.

2. Thông tin chung là các tham số cho biết sơ bộ tên môn học, cấp học, lớp học, khuôn khổ chuyên môn, GV dạy… Thông tin này do GV bộ môn xây dựng.

3. Số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân (BDCMCN) là những thu thập biên chép và tự bồi dưỡng của GV trong các đợt huấn luyện chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn, hoặc tự bồi dưỡng về các lĩnh vực:

– Nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa.

– Các cách thức dạy học, kĩ thuật dạy học hăng hái bộ môn.

– Các kỹ năng dạy tích hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục.

– Các kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học bộ môn.

– Các kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học.

– Tự làm thiết bị dạy học.

– Kinh nghiệm dạy học phân hóa HS yếu kém.

– Kinh nghiệm bồi dưỡng HS giỏi.

– Kế hoạch tự bồi dưỡng thường xuyên.

– Những kinh nghiệm về sư phạm, giáo dục khác.

Số này do GV biên chép trong công đoạn công việc nhiều 5.

4. Số dự giờ là văn bản ghi các bình chọn của GV về tiết dạy của đồng nghiệp theo các mục tiêu tiết dạy nhằm rút kinh nghiệm học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ trong công đoạn công việc. Số dự giờ do GV xây dựng và biên chép lúc dự giờ thăm lớp đồng nghiệp.

5. Số điểm tư nhân là văn bản biên chép tóm lược những đặc điểm của HS về bộ môn và các bình chọn rà soát thường xuyên và định kì trong công đoạn HS theo học môn học.Số điểm tư nhân do GV bộ môn xây dựng và biên chép thường xuyên.

6. Số mượn thiết bị dạy học là số biên chép mượn công cụ, thiết bị dạy học của GV với nhà trường thường xuyên trong công đoạn công việc. Số này do nhà trường xây dựng và quản lí.

7. Số báo giảng ghi kế hoạch lịch dạy học của GV bộ môn theo kế hoạch tuần, học kì và cả 5 thích hợp với thời khóa biểu của nhà trường. Nội dung ghi cụ thể cho từng tiết dạy: tên bài dạy, lớp dạy, thiết bị dạy học. Người đảm trách thiết bị dạy học của trường sẽ căn cứ vào số này để phân phối cho GV sẵn sàng thiết bị dạy học. Số này do GV bộ môn xây dựng trước chí ít 1 tuần trước tiến hành.

8. Kế hoạch bài dạy (giáo án)

Giáo án là bản kế hoạch sẵn sàng trước của GV, ước tính những hoạt động học tập của HS trong tiết học, đề nghị những cảnh huống có thể gặp phải và dự định cách khắc phục để giúp HS tiến hành được tiêu chí bài dạy. Đây là tài liệu quan trọng nhất, buộc phải đối với mọi GV lúc dạy học. Nội dung của giáo án trình bày cách thức dạy học của GV, hoạt động của HS, tri thức căn bản.

Kiểu bài dạy. Tùy từng đặc thù môn học, có những kiểu bài dạy và cấu trúc giáo án không giống nhau. Thông thường có các kiểu bài dạy sau đây:

– Bài dạy lí thuyết, xây dựng các tri thức, kỹ năng mới.

– Bài dạy bài tập, áp dụng các tri thức lí thuyết vào việc khắc phục các vấn đề thực tế hoặc giải các bài tập.

– Bài dạy ôn tập, hệ thống khắc sâu lại các tri thức đã học.

– Bài dạy thực hành, áp dụng và đoàn luyện các kỹ năng thực hành, củng cố các tri thức đã học.

– Tiết rà soát là dạng đặc thù của bài dạy đuợc soạn theo cấu trúc riêng.

Ngoài ra, tùy theo từng môn có các kiểu bài dạy ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn, thăm quan dã ngoại…

9. 1 số để mắt tới lúc đồ mưu hoạch bài dạy: Giáo viên sẽ đồ mưu hoạch không giống nhau.

– Đối với các tiết tổ chức các hoạt động học tập trên lớp.

– Đối với các tiết thực hành.

– Đối với các tiết rà soát.

– Đối với các tiết tổ chức dạy học ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn.

– Tổ chức thăm quan dã ngoại.

Quy trình xây dng giấy tờ dạy học gồm các bước:

  • Bước 1: Tổ chuyên môn trao đổi luận bàn về các văn bản chỉ huy của các ngành, xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn bao gồm: chương trình, sách giáo khoa, khung cung cấp chương trình, chuẩn tri thức kỹ năng của chương trình, khung ma trận đề rà soát, những vấn đề về sử dụng công cụ, thiết bị dạy học, những vấn đề về cách thức dạy học, các kĩ thuật dạy học hăng hái…
  • Bước 2: Hoàn thiện các thông tin chung.
  • Bước 3: Mày mò và cập nhật số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân: Khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kỹ năng, sử dụng thiết bị dạy học, sử dụng kĩ thuật dạy học hăng hái…
  • Bước 4: Mày mò và cập nhật số dự giờ, số mượn thiết bị dạy học, xây dựng số điểm tư nhân.
  • Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài dạy. Dựa vào thời khóa biểu để xây dựng số báo giảng.

Quy trình ra đề kiềm tra theo chuẩn tri thức, kỹ năng trong giấy tờ dạy học:

Do có những nội dung trong chuẩn tri thức, kỹ năng còn được miêu tả 1 cách chung chung, nói chung nên để bình chọn được kết quả học tập của HS 1 cách khách quan, công bình và khoa học thì việc soạn câu hỏi theo chuẩn tri thức, kỹ năng có thể tiến hành theo thứ tự sau:

Bước 1: Phân loại các chuẩn tri thức, kỹ năng theo cấp độ nhận thức (Nhận biết, thông hiểu, áp dụng).

Bước 2: Xác định các thao tác, hoạt động tương ứng của HS theo chuẩn tri thức, kỹ năng cần rà soát, bình chọn.

Bước 3: Xác định 1 số dạng toán căn bản và những sai trái thường gặp của HS lúc làm bài rà soát.

c 4: Xây dựng bảng trọng số của bộ câu hỏi.

– Bước 5: Biên soạn, thí điểm, phân tách, hoàn thiện bộ câu hỏi.

Việc biên soạn đề rà soát cần tiến hành theo thứ tự sau:

  • Bước 1. Xác định mục tiêu của đề rà soát.
  • Bước 2. Xác định vẻ ngoài đề rà soát.

Bước 3. Thiết lập ma trận đề rà soát.

  • Bước Tổ hợp câu hỏi theo ma trận đề.
  • Bước 5. Xây dựng chỉ dẫn chấm (đáp án) và thang điểm.
  • Bước 6. Xem xét lại việc biên soạn đề rà soát.

Ma trận đề là 1 bảng có 2 chiều, 1 chiều là nội dung hay mạch tri thức, kỹ năng chính cần bình chọn, 1 chiều là các ngành độ nhận thức của HS theo các ngành độ: nhận diện, thông hiểu và áp dụng. Trong mỗi ô là chuẩn tri thức kỹ năng chương trình cần bình chọn, tỷ lệ % số điểm, số lượng câu hỏi và tổng số điểm của các câu hỏi. Số lượng câu hỏi của từng ô lệ thuộc vào chừng độ quan trọng của mỗi chuẩn cần bình chọn, lượng thời kì làm bài rà soát và trọng số điểm quy định cho từng mạch tri thức, từng cấp độ nhận thức.

Mày mò việc sử dụng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.

Sử dụng:

  • Giáo án được GV xây dựng, cập nhật thường xuyên và sử dụng trong công đoạn dạy, được nhà trường rà soát thường xuyên theo quy định.
  • Số báo giảng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
  • Số mượn thiết bị dạy học cũng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
  • Số dự giờ được GV sử dụng và cập nhật thường xuyên theo quy định.
  • Số bồi dưõng chuyên môn được GV biên chép và cập nhật thường xuyên.

Tất cá các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được nhà trường rà soát thường xuyên và đột xuất.

  • Bảo quản:
  • GV có nghĩa vụ cập nhật và bảo quản giáo án, số báo giảng, số dự giờ, số bồi dưỡng chuyên môn.
  • Tổ trưởng chuyên môn bảo quản kế hoạch của tổ chuyên môn
  • GV và nhân viên thiết bị dạy học cập nhật và bảo quản số thiết bị dạy học

Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV và nhà trường bảo quản theo quy định.

  • Bổ sung:

Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV cập nhật bổ sung theo quy định.

Mày mò các năng lực nhu yếu ở người thầy cô giáo trưng học cơ sở trong xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học.

Trước đề xuất xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học ở trường THPT, yêu cầu người GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức dạy học:

  • GV phải biết kiếm tìm, nghiên cứu thông tin mới, tài liệu tham khảo, các cảnh huống phần mềm trong thực tế để đoàn luyện cho HS. Để bắt nhịp được với đổi mới của giáo dục phổ biến và sự tăng trưởng của khoa học công nghệ, người GV phải kiếm tìm tài liệu tham khảo, nghiên cứu thông tin. Trong điều kiện thông tin bùng nổ, tài liệu nghiên cứu nhiều chủng loại, phong phú người GV phải có năng lực kiếm tìm chọn lọc tài liệu, nghiên cứu thu nạp, xử lí thông tin, mới mang đến kết quả. Mặt khác, để đoàn luyện HS phần mềm tri thức vào thực tế, GV phải biết kiếm tìm các cảnh huống phần mềm.
  • GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức thực hành, ngoại khóa, sử dụng các thiết bị dạy học. GV phải biết xếp đặt và xác định rõ chừng độ cho các hoạt động thực hành, các hoạt động ngoại khóa, xác định những đề xuất chi tiết và nội dung hoạt động tương ứng cùng các chỉ dẫn nhu yếu về tổ chức các hoạt động này. GV cũng phải có năng lực sử dụng các công cụ dạy học nhất là công cụ công nghệ thông tin để phát huy vai trò quan trọng của nó trong công đoạn dạy học.
  • GV phải có kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp đề xuất đổi mới cách thức dạy học. Để tiến hành được cách thức dạy học hăng hái hóa hoạt động học tập của HS, GV nhu yếu những kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp. Ấy là những kỹ năng dạy học mới đã được giới thiệu nhưng mà chưa được tầm thường trong tất cả GV như: kỹ năng dạy học cộng tác theo nhóm bé, kỹ năng sử dụng công cụ dạy học như 1 nhân vật giáo dục, kỹ năng sử dụng các công cụ nghe nhìn chuyên dụng cho cho dạy học, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, kỹ năng làm các bộ dụng cụ bình chọn kết quả học tập… Những kỹ năng dạy học GV đã có nhưng mà nay cần phải đổi mới như: kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học, kỹ năng đồ mưu hoạch bài học, kĩ thuật đặt câu hỏi, kỹ năng chỉ dẫn thực hành, kỹ năng đổi mới rà soát bình chọn kết quả học tập của HS, kỹ năng thiết lập các chiến lược dạy học…

(Nêu 1 số nguyên cớ chủ quản dẫn tới những giảm thiểu trong xây dựng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học ở trường THPT ngày nay)

Nguyên nhân của hiện trạng này có thể có nhiều, trong đấy có 1 số nguyên cớ chủ quản sau;

– Nhận thức của 1 số GV còn giảm thiểu, chưa thấy sự cần phải có phải đổi mới cách thức dạy học và rà soát bình chọn, đặc thù là việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Nhiều GV cho rằng cứ dạy tốt theo cách thức cũ cũng có thể chuyển tải được hết nội dung tri thức của sách giáo khoa cho HS và bảo đảm đuợc 1 tỷ lệ HS đuợc lên lớp, như thế là việc dạy học đã có hiệu quả tốt. Họ cho rằng giấy tờ dạy học không phù hợp gì tới công đoạn dạy học, việc lên lớp ko có giấy tờ dạy học vẫn xảy ra ở các trường học.

– 1 số cán bộ quản lí và GV quan niệm việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học được thực hiện xưa nay là việc sẵn sàng, sử dụng những thiết bị dạy học đương đại như máy chiếu bản trong (overhead), máy vi tính, projector, thí nghiệm ảo, Microsoft Power Point… trong giờ học. Họ đích thực chưa thấy được sự dị biệt cơ bản giữa tiêu chí của bài học nhưng mà chúng ta chờ đợi ngày nay và tiêu chí của bài dạy trước đây.

– 1 số GV có mong muốn hăng hái tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học 1 cách đích thực, nhưng mà vì chưa nắm được tiêu chí và đặc điểm của sự đổi mới nên đã đi theo những hướng chưa thật chuẩn xác.

– 1 gian khổ rất to tác động tới việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới dạy học ở cấp THPT là khối lượng tri thức của chương trình còn quá tải, khi mà đấy thời lượng dành cho mỗi môn học lại quá giảm thiểu. Thời gian của mỗi tiết học ở THPT chỉ có 45 phút nên gian khổ cho việc tổ chức dạy học theo cách thức mới.

– Vấn đề sĩ số của lớp học quá to ở nhiều trường THPT trọng tâm của các tỉnh, thị thành (mỗi lớp có thể lên tới 50, 60 HS) cũng là gian khổ cho việc xây dụng giấy tờ dạy học. Sĩ số đấy to gấp đôi, hoặc gấp 3 sĩ số của 1 lớp học ở cấp này của các nước trên toàn cầu, với những lớp đông tương tự, ngay việc quản lí thứ tự của lớp trong tiết học đã là gian khổ, nên GV rất gian khổ trong tổ chức cho HS hoạt động để chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng.

– Hiện nay trang thiết bị dạy học của các trường THPT dù rằng đã được đầu cơ trang bị nhưng mà còn rất giảm thiểu, thiếu đồng bộ. Trường lớp được xây dựng theo các quy cách cũ, ko thuận tiện cho việc bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.

– Cũng cần phải nêu thêm 1 nguyên cớ tác động tuy gián tiếp nhưng mà có ảnh hưởng rất to tới công đoạn đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học ở bậc THPT là sự đổi mới chậm chập việc bình chọn kết quả học tập của HS. Hiện nay, mục tiêu của các kì thi còn nặng về rà soát nội dung, chưa chú trọng bình chọn năng lực của người học. Cùng lúc việc bình chọn kết quả giảng dạy của GV cũng chưa thật ân cần tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới giáo dục. Chẳng hạn, lúc dự giờ thao giảng, nhiều người chỉ chuyên chú xem GV dạy chuẩn xác hay ko chuẩn xác, có đặt nhiều câu hỏi hay ko, có bị “cháy” giáo án hay ko?… Họ ít lúc để mắt tới phân tách xem phương pháp nhưng mà GV tổ chức cho HS hoạt động học tập trong tiết học có thích hợp hay ko? (Từ khâu sẵn sàng cho tới lúc thực thi dạy học) Hiệu quả dạy học của tiết học cao hay thấp? Vì thế GV ít chú trọng tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học.

Trên đây chỉ là 1 số nguyên cớ tác động tới việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học ở bậc THPT, chứng ta còn có thể nêu thêm những nguyên cớ khác tùy theo đặc trưng của tùng vùng miền, môn học chi tiết.

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG XÂY DỰNG

VÀ SỬ DỤNG HỒ SƠ DẠY HỌC

Khi công nghệ thông tin (CNTT) tham dự vào công đoạn dạy học sẽ làm môi trường dạy học chỉnh sửa. Nó có ảnh hưởng mạnh bạo đến mọi thành tố của công đoạn dạy học: tiến hành vai trò giảng dạy như 1 GV; hỗ trợ tài liệu học tập mới có tính tương tác, dễ mang, dễ cập nhật; hỗ trợ nguồn khoáng sản học tập phong phú, dễ truy cập, cung cấp và có thể khai thác cởi mở; hỗ trợ dụng cụ học tập mới có bản lĩnh cộng tác với người sử dựng để giúp người sử dựng khai thác hết bản lĩnh làm việc của họ; hỗ trợ kênh giao tiếp, truyền thông mới giữa GV và HS, giữa HS với HS, giữa HS với các nhân vật khác; hỗ trợ dụng cụ rà soát, bình chọn mới khách quan và chuẩn xác; hỗ trợ 1 hệ thống và dụng cụ quản lí dạy học mới…

Khi sử dựng các thành phầm CNTT, GV có thể khai thác các điểm mạnh về mặt kĩ thuật và tiềm năng về mặt sư phạm của CNTT để xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường THPT.

Hoạt động 1. Mày mò bản lĩnh ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học.

Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học sẽ đem lại những ảnh hưởng hăng hái như sau:

Cung cấp nguồn thông tin đủ dùng, phong phú:

Quá trình dạy học với các cách thức, giải pháp ko có đa công cụ multimedia phân phối, luôn gặp phải gian khổ là GV và HS chỉ có số lượng tài liệu và thông tin rất giảm thiểu. Nội dung tài liệu được thể hiện trên giấy do chướng ngại về kĩ thuật in ấn, giá cả, kích tấc và trọng lượng của sách giáo khoa… nên tác giả của sách phải thể hiện cực kỳ cô đọng, chẳng thể biên soạn cuốn sách có nội dung phong phú để phục vụ nhu cầu của người đọc, ko có nhiều tài liệu tham khảo, nhiều tranh ảnh minh hoạ…

Thành phầm CNTT có thể tạo ra những tài liệu đa công cụ chất lượng cao, đơn giản lưu giữ và khai thác chúng, chất lượng tài liệu được cải thiện đáng kể. Do lưu trữ trên ổ cứng hoặc đĩa CD ROM, các tài liệu cho phép khai thác sử dựng nhiều lần nhưng mà ko làm giảm chất lượng. Nghe tài liệu âm thanh vài chục lần thậm chí vài trăm lần với máy tính song chất lượng chẳng hề chỉnh sửa. Các ổ cứng cũng như CD ROM có thể lưu giữ các tài liệu âm thanh chẳng hề gian khổ và tốn kém.

Với 1 chiếc máy tính tư nhân với ổ cứng dung lượng to ngày nay có thể chứa đựng 1 lượng thông tin đồ sộ. Với bản lĩnh lưu trữ thông tin lớn to tương tự, HS ngoài các nội dung học trên lớp còn có thể tham khảo các tài liệu phân phối phong phú nhiều chủng loại, các tự điển bách khoa toàn thư multimedia trên ổ cứng, trên đĩa CD ROM hoặc trên mạng Internet. Nhờ bản lĩnh hỗ trợ tư liệu đặc thù của hệ thống multimedia có thể cho phép GV và HS tổ chức các hoạt động dạy học theo những phương thức mới chủ động hơn, phong phú hơn và hăng hái hơn. Hiện nay HS cảm thấy rất ngại lúc tra cứu tài liệu vì thiếu thời kì và thiếu nguồn tài liệu tra cứu. Nhưng với giấy tờ dạy học đã được multimedia hóa sẽ giúp HS giải quyết được gian khổ này. Máy tính với những ứng dụng tin học đã giúp xử lí thông tin cực kỳ mau chóng, chỉ với 1 động tác kích chuột HS tìm thấy ngay thông tin nhưng mà mình mong muốn. Kể cả các thông tin còn nằm trên máy chủ nào đấy trên toàn cầu thì thời kì truy cập cũng chỉ tính bằng phút thậm chí là mấy giây thôi. Truy cập thông tin đơn giản, mau chóng giúp HS phấn chấn, háo hức, tiết kiệm thời kì và hiệu suất học tập được phát triển hơn.

Giúp GV đổi mới cách thức dạy học, bình chọn kết quả học tập của HS:

Khi ứng dựng CNTT trong dạy học, HS được nhúng vào 1 môi trường học tập cực kỳ mới mẽ, lôi cuốn, nhiều chủng loại và có tính phân phối cao.

Môi trường này chưa hề có trong nhà trường truyền thống trước đây. Ấy là các vi toàn cầu, các môi trường hoạt động hăng hái mới mẻ như mạng internet, thư viện điện tử, bài giảng điện tử, lớp học ảo, trường học ảo… CNTT mở ra triển vọng lớn to trong việc đổi mới các cách thức và vẻ ngoài dạy học. Những xu thế dạy học ko truyền thống như dạy học theo lí thuyết kiến tạo, theo ý kiến hoạt động, dạy học phát hiện và khắc phục vấn đề… càng có nhiều điều kiện để áp dựng phổ thông và khai thác triệt để điểm mạnh và giải quyết các giảm thiểu (về mặt thời kì, ko gian và sự phân hoá của HS) đối với mỗi cách thức đấy. Trong môi trường CNTT, các vẻ ngoài dạy học như dạy học nhất tề, dạy học theo nhóm, dạy học tư nhân cũng từ đấy nhưng mà sẽ có đổi mới như: tư nhân tự học, tự nghiên cứu và làm việc với máy vi tính, các tư nhân nghiên cứu, trao đổi và làm việc theo các nhóm cởi mở các nhóm ảo. Xuất hiện việc dạy học theo vẻ ngoài lớp học phân tán qua mạng, dạy học từ xa, dạy học cá thể hoá, dạy học qua cầu truyền hình…

Đặc thù với mạng internet, HS có thể tự tra cứu thông tin ở các thư viện điện tử, cập nhật các thông tin mới mẻ, luận bàn với các HS và GV ở nhiều nơi không giống nhau trên toàn cầu vào bất kì thời khắc nào đấy. Đối với HS, toàn cầu kiến thức được mở mang hầu như vô bờ, họ ko bị giới hạn bởi nguồn kiến thức (hầu như độc nhất vô nhị) của GV trên lớp và sách giáo khoa hàng 5 nữa. Điều đấy mở ra bản lĩnh tăng trưởng năng lực tự học, tự kiếm tìm kiến thức, làm việc độc lập của từng HS. Trong tình hình đấy, người ta lo âu vai trò của GV sẽ bị thủ tiêu hay suy giảm. Nhưng thực tiễn, vai trò của GV vẫn cực kỳ quan trọng và được phát huy hiệu quả hơn trong công đoạn dạy học. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng thuộc tính của vai trò này đã chỉnh sửa: GV chẳng phải là nguồn kiến thức độc nhất vô nhị, chỉ tiến hành việc chuyển tải kiến thức nhưng mà GV giữ vai trò chỉ dẫn, chỉ huy. Mối quan hệ giữa GV và HS trong bối cảnh mới cũng sẽ khác với trước đây. GV chẳng phải là người ra lệnh cho HS phải học cái gì nhưng mà biến thành người cố vấn, trợ tạo điều kiện cho HS. GV nhập vai trò tổ chức, điều khiển, phê chuẩn việc ảnh hưởng lên cả HS và môi trường CNTT. Trong điều kiện sử dựng các công cụ dạy học truyền thống, 1 GV phải ân cần đến vài chục HS thì dù có phấn đấu tới đâu, việc bảo đảm nguyên lý phân hóa trong dạy học vẫn giảm thiểu. Tất cả các cụ thể diễn biến của hoạt động học tập của mỗi HS khó được GV nắm bắt được và xử lí kịp thời. Về lí luận, cần phải giúp từng HS làm việc theo đúng bản lĩnh thích hợp năng lực về kiến thức và các kỹ năng của mình, có nhịp điệu làm việc thích hợp với tư nhân. Điều này hoàn toàn có thể tiến hành được nếu có CNTT viện trợ. Khi này mọi HS đều có 1 “trợ giảng” riêng, có thể được viện trợ tại thời khắc gian khổ bất kì, đúng khi với liều lượng phù hợp. Mỗi HS đều có 1 phương án làm việc riêng, tiến hành nhiệm vụ thích hợp tư nhân HS đấy (có thể giống nhưng mà cũng có thể khác tất cả các bạn khác), các nhiệm vụ này được ứng dụng hoạch định thích hợp. Điều này còn tạo thời cơ học tập cho HS vùng bóng gió heo lánh, HS khuyết tật, góp phần tăng lên tính nhân bản cho nền giáo dực. Phần mềm được sử dựng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay và bảo đảm mối liên hệ ngược của GV đến từng HS trong công đoạn dạy học, lúc làm bài tập trên máy vi tính, HS sẽ được kiểm soát, được tương trợ và bình chọn tại chỗ.

Trong 1 lớp học, HS có trình độ không giống nhau. Đây là 1 gian khổ đối với các GV lúc giảng dạy theo cách thức truyền thống, với hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia cho phép giải quyết được gian khổ này. Khi HS mắc nhiều lỗi khi mà làm bài tập, máy vi tính sẽ khuyến cáo và đưa ra cho HS những bài tập có cùng nội dung nhưng mà chừng độ dễ hơn. Khi làm việc độc lập với máy tính HS có thể tự chọn cho mình 1 nhịp điệu làm việc thích nghi riêng. Trong nhiều ứng dụng dạy học có sự tương tác của HS với máy tính người ta còn đưa vào đồng hồ đếm thời kì cho phép HS theo dõi được vận tốc làm bài hoặc để khống chế thời kì làm bài. HS có thể tự định lượng được tân tiến của mình trong học tập.

Khi sử dựng hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia, các chuyên gia giáo dực và tin học đã cộng tác thiết kế các ứng dụng dạy học nhằm tạo điều kiện cho HS có thể làm việc độc lập và tự học với bản lĩnh lường trước được những gian khổ HS gặp phải lúc thực hiện các hoạt động lĩnh hội tri thức và luyện tập kỹ năng, các ứng dụng đã đưa ra những lời giảng giải, chỉ ra các nguyên cớ mắc lỗi, đưa vào các nội dung phân phối lí thuyết, các bài tập bổ trợ… Quá trình học tập của HS ko còn bị dựa dẫm hoàn toàn vào nội dung bài giảng của GV như trong các cách thức truyền thống (giảng dạy mặt đương đầu).

Nhờ việc tổ chức hệ thống dữ liệu đơn giản truy cập, thứ tự học tập ko nhất quyết phải được thực hiện theo 1 trình tự nhất mực. Máy vi tính cho phép HS tiến hành đơn giản các hoạt động luyện tập. HS có thể sử dựng cách thức quy nạp hoặc suy diễn…

Tạo ra nhiều hoạt động học tập lôi cuốn và duy trì sự hứng thú học tập của HS:

Trong ổ cứng của máy tính, CD ROM là cơ sở dữ liệu, hỗ trợ cho HS các tài liệu học tập lôi cuốn về nội dung văn bản, hình ảnh động, tĩnh, âm thanh, các đoạn video clip… nhưng mà các tài liệu học tập thông thường khác chẳng thể có được. Nhiều hoạt động học tập đã được thiết kế thành các ứng dụng trò chơi học tập. Mỗi lúc xong xuôi các bài tập, HS có thể thu được từ máy những nhận xét chuẩn xác, những lời khen lúc đạt được kết quả tốt và những lời hướng dẫn lúc kết quả chưa đạt đề xuất… HS ko cảm thấy mệt mới, buộc phải nhưng mà cảm thấy hứng thú tiến hành các trò chơi học tập, hứng thú học tập.

Trong công đoạn học tập, tuỳ theo cảnh ngộ, điều kiện vốn tri thức của từng HS có không giống nhau, mỗi HS cần có những đề xuất viện trợ không giống nhau. Khi thiết kế ứng dụng, các các kiến trúc sư đã đưa vào nhiều chương trình viện trợ HS vượt qua gian khổ lúc gặp phải trong công đoạn học tập. Mỗi lúc HS gặp phải gian khổ có thể đơn giản đề xuất máy đưa ra các chương trình viện trợ. HS có thể nạp dữ liệu vào máy tính, chỉnh sửa dữ liệu và được kết quả mới.

Do hiện ra máy tính vạn năng, hiện ra các sách giáo khoa điện tử vì thế các bảng tra cứu, số tay toán học, bàn tính gảy, thước tính… sẽ được phê chuẩn lại (về bản lĩnh còn đó hoặc bản lĩnh sử dựng trong các cảnh huống sư phạm giảm thiểu nào đấy). Để tăng lên chất lượng dạy học, cần hiểu rằng chỉ riêng máy vi tính thì ko đủ nhưng mà cần tăng mạnh nghiên cứu tạo ra môi trường đa công cụ gồm có máy tính, video, máy chiếu, mạng internet, website giáo dực…

Trong 1 lớp học, chứng ta thường gặp 1 số HS luôn có tâm lí rụt nè, mặc cảm ít lúc dám phát biểu nghĩ suy của mình trước lớp. Những HS này thường có kết quả học tập thấp hơn các HS khác. Các HS này thường có tâm lí sợ mắc lỗi trước mọi người. Tự các em vẫn có thể làm việc và tương tác với máy tính cả lúc ko có GV. Làm việc độc lập với máy tính sẽ dần dần giúp các HS này giải quyết được tâm lí mặc cảm, nhát gan trong học tập. Việc sử dựng CNTT ngay lúc ngồi trên ghế nhà trường đã trục tiếp góp phần tạo nên và tăng trưởng kỹ năng sử dựng thuần thục máy vi tính và làm việc trong môi trường CNTT cho HS phổ biến. Đây là những kỹ năng chẳng thể thiếu của công nhân trong thời đại tăng trưởng của CNTT. Sử dựng CNTT trong công đoạn tích lũy và xử lí thông tin đã giúp tạo nên và tăng trưởng cho HS cách khắc phục vấn đề hoàn toàn mới, đưa ra các quyết định trên cơ sở kết quả xử lí thông tin. Cách học này tránh được kiểu học vẹt, họ ứng phó, máy móc, nhồi nhét tiêu cực trước đây, nó yêu cầu sự độc lập, tự giác và nghiêm chỉnh của HS trong học tập. Trong công đoạn học tập với sự viện trợ của CNTT, HS có điều kiện tăng trưởng năng lực làm việc với cường độ cao 1 cách khoa học, đức tính chuyên cần, chuyên cần, bản lĩnh độc lập, thông minh, tự chủ và kĩ luật cao. Việc tự bình chọn, rà soát tri thức bản thân bằng các ứng dụng trên máy vi tính cũng giúp HS đoàn luyện đức tính trưng thực, cẩn thận, chuẩn xác và kiên cường, bản lĩnh quả quyết.

Với việc ứng dựng công nghệ thông tin và liên kết các cách thức dạy học hăng hái, GV sẽ tổ chức được các hoạt động học tập nhiều chủng loại, phong phú, đạt hiệu quả cao.

Trong công đoạn xử lí dữ liệu để đáp ứng những thành phầm thích hợp với tiêu chuẩn, tiêu chí cần có 1 số ứng dụng phân phối, chả hạn như: 1 số văn bản, tệp tin được lưu dưới định dạng pdf cần có Adobe Reader mới đọc được. 1 số đoạn video, hình ảnh cần chuyển định dạng cho thích hợp việc sử dựng như ứng dụng: xUisoft, macromedia. 1 số ứng dụng cắt, ghép phim: Movie maker, Hero supper Player… 1 số ứng dụng phân phối soạn giảng như: Photo stoiy (tạo album ảnh động), Flash Player (tạo hiệu ứng chữ), Violet (trắc nghiệm), Proshow gold (đồng hồ), Micorosoft Encarta (bộ sưu tập các video, hình ảnh, thông tin, trò chơi về động vật)…

Việc truy cập internet tạo cho GV niềm ham mê, hứng thú trong học tập và giảng dạy, thực hành bản lĩnh làm việc và nghiên cứu độc lập. GV có thể chủ động, kết hợp nhiều nguồn tri thức, kỹ năng trong 1 bài giảng có sử dựng công nghệ. Ngoài ra, công nghệ giúp chúng ta có thể tiến hành nhiều công tác đồng thời, có bản lĩnh chuyển sự để mắt tới 1 cách mau chóng, thời kì phục vụ nhanh, luôn tiến hành kết nối, thức đẩy công đoạn làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn nữa, công nghệ kết hợp các nguồn kiến thức lại với nhau, kết nối công dân thế giới. Điều này khiến cho ko gian địa lí bị xóa nhòa và công nghệ biến thành 1 phần trong cuộc sống.

Hoạt động 2. Mày mò những cp độ ứng dựng CNTT trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường trưng học cơ sở.

THÔNG TIN PHẢN HỒI

Việc ứng dựng CNTT trong xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học ở trường THPT biểu lộ rất nhiều chủng loại, trong thực tiễn nó được khai triển ở các chừng độ rất không giống nhau. Tuy từng trường hợp chi tiết, tuỳ chừng độ nhận thức và kỹ năng công nghệ thông tin của GV, trang thiết bị nhưng mà các trường ứng dựng CNTT ở chừng độ không giống nhau:

Mức l, ứng dựng CNTT viện trợ GV 1 số thao tác nghề nghiệp:

Trong công đoạn dạy học, GV phải làm 1 loạt công tác như soạn thảo giáo án, ra bài rà soát, nhận xét HS, sẵn sàng các đồ dùng dạy học, các tài liệu cho tiết học… Rất nhiều công tác tương tự sẽ được viện trợ bởi các thiết bị CNTT như chương trình soạn thảo văn bản, bảng tính Excel, các thiết bị quét tư liệu ảnh, chụp ảnh tư liệu. Giáo án sẽ được soạn bởi các ứng dựng văn phòng, các bài rà soát test có thể được chọn lọc bởi nhà băng đề trắc nghiệm, in ấn nhờ ứng dụng dụng cụ viện trợ riêng. Các tư liệu chuyên dụng cho bài dạy học được lấy từ các website trên Internet, được sao chụp từ máy scaner… Nhờ các thiết bị CNTT nhưng mà công việc sẵn sàng của GV đơn giản hơn và chất lượng được phát triển hơn hẳn. Khi này các thiết bị CNTT ko cần nhiều, chỉ cần 1 vài máy vi tính và bộ thiết bị máy quét ảnh, máy photo, 1 máy tính có kết nối Internet, 1 máy in là đủ chuyên dụng cho cho tất cả GV của trường. Đây là chừng độ thấp nhất nhưng mà tầm thường nhất ngày nay.

Mức 2, ứng dựng CNTT phân phối 1 khâu trong công đoạn dạy học.

Ngoài việc sử dựng CNTT để sẵn sàng cho tiết dạy học chi tiết, GV có thể sử dựng CNTT để phân phối 1 công tác nào đấy trong công đoạn dạy học. Ví dự thay cho việc dùng phấn viết lên bảng đen truyền thống GV dùng máy chiếu để biểu diễn những nội dung tri thức toán học mấu chốt. Việc trình chiếu bài dạy học giúp GV có thể đưa các thông tin ra mau chóng, ngoài kênh chữ còn kèm theo các kênh âm thanh, hình ảnh, phim… có thể tạo ra hiệu ứng tốt đến HS. Khi này, lớp học chỉ cần trang bị máy chiếu multimedia projector, GV chỉ cần kèm theo 1 máy vi tính là đủ. Đây là chừng độ nhưng mà nhiều trường đang khai triển. Tuy vậy CNTT chỉ được ứng dựng trong cảnh huống dạy học nhất tề là chủ quản, chưa phân phối đến những vẻ ngoài dạy học tư nhân và dạy học theo nhóm, các ứng dụng được sử dựng nhưng mà chỉ là trình chiếu cho cả lớp theo dõi.

Mức 3, ứng dựng CNTT h trợ việc tổ chức hoạt động dạy học 1 số chủ đề theo chương trình dạy học

Ngoài việc trình chiếu thông tin, GV sử dựng các ứng dụng dạy học được cài vào các máy tính. Dưới sự chỉ dẫn của GV, từng HS làm việc trong môi trường do ứng dụng dạy học tạo ra, tương tác với các nhân vật trên màn hình và từ đấy tiếp cận những định nghĩa, định lí, giải bài tập và những kỹ năng mới. Với chừng độ này, từng HS có dịp làm việc với máy vi tính, tự mình thí nghiệm, dự báo, rà soát giả thuyết, từng tư nhân làm việc với vận tốc tùy thuộc bản lĩnh của mình. HS đạt được trình độ không giống nhau tuỳ năng lực từng em. Khi này việc tư nhân hoá trong dạy học sẽ đạt được trình độ cao. Để đạt được chừng độ này, cần có các ứng dụng dạy học tốt, dành cho tầng lớp học không giống nhau. Không những thế, cần trang bị máy tính đủ để mỗi HS có dịp sử dựng máy tính thường xuyên khi mà học toán. Máy vi tính có thể được trang bị tập trưng trong 1 hoặc vài phòng máy (computer lab), hoặc đưa về từng phòng học bộ môn Toán (mỗi phòng có vài máy tính). Chừng độ này chỉ có ở 1 số trường có điều kiện và tập trưng ở khu vực đô thị.

Mức 4, tích hợp CNTT vào toàn thể công đoạn dạy học.

Chừng độ nhưng mà việc ứng dựng CNTT đều được tính tới trong công đoạn khai triển mỗi thành tố của công đoạn dạy học. Việc ứng dựng CNTT được đưa vào 1 cách tối ưu nhằm mang lai hiệu quả cao. Như vậy, bản lĩnh ứng dựng CNTT phải được tính tới lúc phê chuẩn từng yếu tổ của công đoạn dạy học ở trường THPT.

Mức 5, ứng dựng CNTT vào dạy học qua mẫu hình e-learning:

Chừng độ này đã đưa tới mẫu hình “trường học sáng dạ”. Đây là 1 kiểu trường học mới. Đặc điểm của nó là cực kỳ giàu công nghệ và phương thức làm việc khác với nhà trường truyền thống, tập trưng vào HS với sự phân phối đắc lực của CNTT. chương trình học được GV thiết kế thích hợp với trình độ, ước muốn của HS. Vận tốc dạy học và cách thức thích hợp với bản lĩnh nhận thức của HS. HS có dịp được tự học 1 cách chủ động, thông minh, phát hiện và khắc phục vấn đề theo cá tính nghiên cứu khoa học với sự viện trợ của GV; việc dạy học bằng lớp học ảo theo vẻ ngoài e-learning, m-learning. Như vậy, CNTT có thể phân phối, hỗ trợ dụng cụ và khoáng sản để HS tiến hành các hoạt động sau: Tính toán xử lí thông tin nhờ các chương trình ứng dựng, luận bàn, thể hiện kết quả nghiên cứu nhờ các ứng dụng dụng cụ trình chiếu, luận bàn với GV, HS ở xa phê chuẩn chat, hoặc forum, làm bài rà soát bình chọn nhờ các module thi online. Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học cần tuỳ theo điều kiện chi tiết về ứng dụng, thiết bị, khoáng sản, trình độ HS… để khai thác hết các bản lĩnh của CNTT nhằm giúp HS tích luỹ tri thức và kinh nghiệm nhờ các hoạt động nhiều chủng loại trên. Bảo đảm cho HS THPT tạo nên và tăng trưởng năng lực tự học, tự nghiên cứu để tiếp cận với cách học ở đại học. Phần mềm có các tương tác đồng bộ và ko đồng bộ giữa các HS và GV, phân phối GV tổ chức bình chọn và giúp HS tự bình chọn kết quả học tập.

Việc ứng dựng CNTT trong dạy học sẽ giúp duy trì và phát huy việc học phê chuẩn kiến tạo xã hội. Trong dạy học, kiến tạo xã hội được tiến hành tốt nhất phê chuẩn các hoạt động cùng nhau khắc phục nhiệm vụ nhận thức để từ đấy tạo nên năng lực tiến hành mới. Hạ tầng để tiến hành đề xuất này là hệ thống khoáng sản, bao gồm các video dip, nhà băng câu hỏi trắc nghiệm, bộ số liệu mẫu chuyên dụng cho cho các tính toán, thư viện mẫu hình dạy học ảo tương tác được… Cơ sở kĩ thuật là các ứng dụng, các kĩ thuật thiết kế tương tác, tổ chức dữ liệu. Điều này rất thích hợp với nguyên lắc hình thành môi trường học tập kiến tạo theo định hướng đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT ngày nay.

Hoạt động 3. Minh họa việc ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ kế hoạch dạy học (giáo án, bài giảng).

THÔNG TIN PHẢN HỒI

Giấy má dạy học của GV ở trường THPT gồm kế hoạch dạy học, giáo án, tài liệu chuyên môn, số thu thập tri thức, ma trận và đề thi… Sau đây là minh họa cho việc ứng dựng CNTT để soạn kế hoạch dạy học theo bài học (còn gọi là giáo án, bài soạn) góp phần tiến hành đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT.

1. Khái niệm kế hoạch bài học điện t(giáo án điện t)

Giáo án dạy học là dàn ý lên lớp của thầy cô giáo bao gồm nhan đề của bài lên lớp, mục tiêu giáo dực và giáo dưỡng, nội dung, cách thức, thiết bị, những hoạt động chi tiết của thầy và trò, khâu rà soát bình chọn… Tất cả được ghi ngắn gọn theo trình tự thực tiễn sẽ diễn ra trong giờ lên lớp. Giáo án được thầy cô giáo biên soạn trong công đoạn sẵn sàng lên lớp và quyết định phần to sự thành công của bài học. Lập mưu hoạch bài học là công tác của thầy cô giáo trước lúc lên lớp, là xây dựng 1 bản kế hoạch cụ thể cho mọi giờ lên lớp. Kết quả của công tác này còn được gọi là kế hoạch bài học hay bài soạn. Thiết kế nội dung phương pháp dạy học và giáo dực là khâu quan trọng của công đoạn sư phạm.

So với công cụ dạy học cũ chỉ có bảng đen, phấn trắng và sách giáo khoa… thì việc thiết kế nội dung bài giảng trên máy vi tính với sự phân phối của hệ thống dạy học đa công cụ (Multimedia) là 1 bước ngoặt to. Bài giảng điện tử sẽ phân phối cho GV, mang đến cho HS phổ biến nhiều thông tin hơn, lôi cuốn hơn qua các kênh thông tin nhiều chủng loại và phong phú: nội dung văn bản, âm thanh, hình ảnh tĩnh, động. Các đoạn video clip chân thật. Đặc thù ở 1 số nội dung tri thức người ta còn có thể xây dựng các mẫu hình mô phỏng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng để minh hoạ hoặc chứng minh định luật, đã biến công đoạn HS nhận thức các tri thức trừu tượng thành công đoạn tự HS lĩnh hội tri thức mới 1 cách háo hức, hăng hái. Công tác này cũng giúp GV giảng bài lôi cuốn và HS tiếp nhận tri thức đỡ trừu tượng hơn.

Giáo án điện tử là 1 vẻ ngoài tổ chức bài lên lớp nhưng mà ở đấy toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học đều đã được chương trình hoá, do GV điều khiển phê chuẩn môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cần xem xét giáo án điện tử chẳng phải thuần tuý là các tri thức nhưng mà HS ghi vào vở nhưng mà đấy là toàn thể hoạt động dạy và học hăng hái – tất cả các cảnh huống sẽ xảy ra trong công đoạn truyền đạt và tiếp nhận tri thức của HS. Giáo án điện tử nhập vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp để biến công đoạn dạy học tiêu cực thành công đoạn dạy học hăng hái.

Các đơn vị của bài học đều phải được multimedia hoá. Multimedia được hiểu là đa công cụ, đa môi trường, đa truyền thông. Trong môi trường multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (Text), đồ hoạ (Graphics), hoạt ảnh (Animation), ảnh chụp (Image), âm thanh (Audio) và phim video (video clip)…

Giáo án điện tử là bản thiết kế chi tiết toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học của GV và HS trong giờ lên lớp. Toàn bộ hoạt động dạy học đấy đã được multimedia hóa 1 cách cụ thể, có cấu trúc chặt chẽ và lôgic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là 1 thành phầm của hoạt động thiết kế bài dạy được trình bày bằng vật chất trước lúc bài dạy học được thực hiện. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của 1 bài giảng điện tử. Xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là 2 cách gọi không giống nhau cho 1 hoạt động chi tiết để có được 1 bài giảng điện tử trong công đoạn dạy học hăng hái.

2. Quy trình xây dựng giáo án điện t

a. Mày mò nội dung bài dạy, xác định tiêu chí bài học

  • Đây là công tác cần làm trước hết của thầy cô giáo. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài qua sách giáo khoa, sách thầy cô giáo và các tài liệu khác có liên can.
  • Trong dạy học hướng tập trưng vào HS, tiêu chí phải chỉ rõ học xong bài, HS đạt được cái gì. Chỉ tiêu ở đây là tiêu chí học tập, chứ chẳng phải là tiêu chí giảng dạy, nghĩa là chỉ ra thành phầm nhưng mà HS có được sau bài học. Đọc kĩ sách giáo khoa, liên kết với các tài liệu tham khảo để mày mò nội dung của 1 mục trong bài và cái đích cần đạt đến của 1 mục. Trên cơ sở đấy xác định đích cần đạt đến của cả bài về tri thức, kỹ năng, thái độ. Ấy chính là tiêu chí của bài.
  • Chọn lọc tri thức căn bản, xác định đúng những nội dung trọng điểm. Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ biến được tuyển lựa từ khối lượng kiến thức khổng lồ của khoa học bộ môn, được xếp đặt 1 cách lôgíc, khoa học, bảo đảm tính sư phạm và thực tế cao. Do đó, cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn.

Đây là điều buộc phải thế tất vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chú yếu; chương trình là pháp lệnh cần phải làm theo. Căn cứ vào đấy để chọn lọc tri thức căn bản là nhằm bảo đảm tính hợp nhất của nội dung dạy học trong toàn quốc. Mặt khác, các tri thức trong sách giáo khoa đã được quy định để dạy cho HS. chọn tri thức căn bản là chọn tri thức ở trong sách giáo khoa chứ chẳng phải là ở tài liệu nào khác. Tuy nhiên, để xác định được đúng tri thức căn bản mỗi bài thì cần phải đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở mang hiểu biết về vấn đề cần giảng dạy và tạo bản lĩnh chọn đúng tri thức căn bản. Việc tuyển lựa tri thức căn bản của bài dạy học có thể gắn với việc xếp đặt lại cấu trúc của bài để làm nổi trội các mối liên hệ giữa các hợp phần tri thức của bài, từ đấy rõ thêm các trọng điểm, trọng tâm của bài. Việc làm này đích thực nhu yếu, ngoài ra chẳng phải ờ bài nào cũng có thể thực hiện được đơn giản. Cũng cần để mắt tới việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên lý ko làm chuyển đổi ý thức căn bản của bài nhưng mà các tác giả sách giáo khoa đã dày công xây dựng.

  • Soạn giáo án (kế hoạch dạy học) theo hướng dạy học hăng hái, sẵn sàng các công cụ phân phối khác.

b. Viết kịch bản sư phạm cho việc thiết kế giáo án trên máy

  • Khi tiến hành bước này người thầy cô giáo phải tưởng tượng được toàn thể nội dung cũng như những hoạt động sư phạm trên lớp của toàn thể tiết dạy học và xác định được phần nào, nội dung nào của bài cần sự phân phối của máy vi tính để tiết học đấy đạt hiệu quả cao.
  • Tên các (Hoạt động) – Thời gian – Nội dung – Hình ảnh trình bày trên máy vi tính.

c. Multimedia hoá tri thức

Đây là bước rất quan trọng cho việc thiết kế giáo án điện tử, là nét đặc thù căn bản của giáo án điện tử để phân biệt với các loại giáo án truyền thống, hoặc các loại giáo án có sự phân phối 1 phần của máy vi tính. Việc Multimedia hóa tri thức được tiến hành qua các bước:

  • Dữ liệu hoá thông tin tri thức
  • Phân loại tri thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ, ảnh tĩnh, phim, âm thanh…
  • Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dựng trong bài học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ 1 ứng dụng dạy học nào đấy hoặc từ Internet… hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh quét, ảnh chụp, quay video, bằng các ứng dụng đồ họa chuyên dựng như Macromedia ..
  • Chọn lựa các ứng dụng dạy học có sẵn cần dùng tới trong bài học để đặt kết hợp.
  • Xử lí các tư liệu nhận được để tăng lên chất lượng về hình ảnh, âm thanh.

Khi sử dựng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải bảo đảm các đề xuất về mặt nội dung, cách thức, thẩm mĩ và ý nghĩ sư phạm.

d. Xây dựng các thư viện tư liệu

Sau lúc có được đầy đủ tư liệu cần phục vụ bài giảng điện tử, phải thực hiện xếp đặt tổ chức lại thành thư viện tư liệu, nghĩa là tạo được cây folder có lí. Cây folder có lí sẽ tạo điều kiện kiếm tìm thông tin mau chóng và giữ được các kết hợp trong bài giảng tới các tập tin âm thanh, video clip lúc sao chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác.

e. Thể hiện kịch bản trên máy vi tính

– Xử lí chuyển các nội dung trên thành giáo án điện tử trên máy vi tính.

– Dựa trên 1 số ứng dụng dụng cụ tiện ích (LectureMaker, Microsoft Power Point, Violet…) để trình bày kịch bản đấy.

– Nếu thầy cô giáo còn giảm thiểu về trình độ tin học thì ở bước này cần có thêm sự phân phối của người có trình độ tin học, để bàn luận luận bàn hợp nhất việc trình bày kịch bản trên máy tính, vừa làm vừa phải điều chỉnh kịch bản cho thích hợp với tiếng nói nhưng mà máy tính có thể trình bày được vì việc trình bày kịch bản trên máy tính còn lệ thuộc về mặt thời kì, về công nghệ và trình độ của người trình bày, vì đây là công cụ phân phối nên việc thiết kế trên máy phải bảo đảm các đề xuất công cụ dạy học yêu cầu: tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mĩ.

– Chọn lọc tiếng nói hoặc các ứng dụng biểu diễn để xây dựng tiến trình dạy học phê chuẩn các hoạt động chi tiết.

Sau lúc đã có các thư viện tư liệu, GV cần chọn lọc tiếng nói hoăc các phầm mềm trinh diễn thông dựng để thực hiện dựng giáo án điện tử.

Trước hết cần chia công đoạn dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt động nhận thức chi tiết. Dựa vào các hoạt động đấy để định ra các slide (trong Microsoft office PowerPoint) hoặc các trang trong Frontpage. Sau đấy xây dựng nội dung cho các trang (hoặc các slide). Tùy theo nội dung chi tiết nhưng mà thông tin trên moi trang slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip…

Văn bản cần thể hiện ngắn gọn cô đọng, chú yếu là các tiêu đề và dàn ý căn bản. Nên dùng 1 loại Font chữ tầm thường, dễ dãi, màu chữ được dùng hợp nhất tuy theo mục tiêu sử dựng không giống nhau của văn bản như câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, hoặc giải thích, giảng giải, ghi nhớ, câu giải đáp… Khi thể hiện nên sử dựng lược đồ khối để HS thấy ngay được cấu trúc lôgic của những nội dung cần thể hiện.

Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền (Background) hợp nhất cho các trang slide, giảm thiểu sử dựng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau.

Không nên lạm dựng các hiệu ứng biểu diễn theo kiểu “bay nhảy” lôi cuốn sự tò mò ko nhu yếu của HS, phân tán để mắt tới trong học tập, nhưng mà cần để mắt tới làm nổi trội các nội dung trọng điểm, khai thác triệt để các ý nghĩ tiềm tàng bên trong các nhân vật biểu diễn phê chuẩn việc nêu vấn đề, chỉ dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm tăng trưởng tư duy của HS. cái quan trọng là nhân vật biểu diễn ko chỉ để thầy tương tác với máy tính nhưng mà chính là phân phối 1 cách hiệu quả sự tương tác thầy- trò, trò – trò.

Cuối cùng là tiến hành các kết hợp (Hyperlink) có lí, lôgic lên các nhân vật trong bài giảng. Đây chính là điểm mạnh nổi trội có được trong bài giảng điện tử nên cần khai thác tối đa bản lĩnh kết hợp. Nhờ sự kết hợp này nhưng mà bài giảng được diễn ra 1 cách cởi mở, thông tin được truy xuất kịp thời, HS dễ tiếp nhận.

Thể nghiệm, tu sửa và hoàn thiện

– Sau lúc thiết kế xong, phải thực hiện chạy thử chương trình, rà soát các sơ sót, đặc thù là các kết hợp để thực hiện tu sửa và hoàn thiện.

– Chạy thử (chạy thử từng phần và toàn thể các slide để điều chỉnh những sơ sót về kĩ thuật trên máy tính).

– Chỉnh sửa và hoàn thiện giáo án điện tử.

– Dạy thử (Dạy thử toàn thể bài trước GV hoặc cả GV và HS) để có thể điều chỉnh nội dung cũng như vẻ ngoài trình bày trước lúc dạy chính thức.

– Nếu là giáo án điện tử viết cho người khác sử dựng thì cần thêm bước thứ 5.

Viết bản chỉ dẫn

Kĩ thuật sử dựng (cách mở đĩa, mở bài giảng,..).

– Ý đồ sư phạm của từng phần bài giảng, từng slide được thiết kế trên máy vi tính.

– Phương pháp giảng dạy, việc liên kết với các cách thức khác, công cụ khác (nếu có).

– Hoạt động của GV và HS, sự phổi hợp giữa GV và HS.

– Tương tác giữa GV, HS và máy tính…

Sử dựng ứng dụng thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học online trên mạng internet.

1 trong những khâu quan trọng nhất của dạy học online là việc xây dựng nội dung dành cho từng khoá học chi tiết. Nội dung này được xây dựng dựa trên nền móng của web và Internet. Hiện nay nội dung các bài giảng điện tử của hệ thống e-learning chủ quản được xây dựng trên các ứng dụng như: ProntPage, Script, exe, Lectora…

Lectora là 1 ứng dụng CAS có bản lĩnh tương tác với HS và làm theo các chuẩn của E-Learning. Nó chứa đựng toàn thể kế hoạch cũng như kịch bản dạy học của GV nhằm hỗ trợ tri thức cho HS. Phần mềm Lectora Enterprise Edition hỗ trợ 1 nhóm hoàn chỉnh các dụng cụ nhu yếu để đáp ứng 1 thành phầm mang tính nhiều năm kinh nghiệm về xuất bản web nhưng mà tốn ít thời kì nhất. Nó tạo điều kiện cho những GV chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế nội dung cho bài giảng điện tử.

Phần mềm Lectora ô sin xây dựng và xuất bản các chủ đề 1 cách đơn giản. Ta có thể tập trưng vào việc tổ chức nội dung và thông minh nội dung dạy học. Trong lúc ứng dụng sẽ tự động hoàn thiện những phần soạn chương trình phực tạp và những nhiệm vụ xuất bản cho những tính năng và sự định hướng cho 1 chủ đề nào đấy.

Sử dựng Lectora để xây dựng các chủ đề sẽ làm tăng hiệu quả công tác, tiết kiệm thời kì và kinh phí. Đây là 1 gói ứng dụng cho phép 1 tư nhân hoặc 1 nhóm có thể đơn giản tạo ra các nội dung ảnh hưởng lẫn nhau. Phần mềm Lectora có nhiều điểm đồng nhất với Power Point là tiện ích nhưng mà đông đảo GV THPT thường dùng để soạn giáo án điện tử, ngoài ra Lectora có điểm mạnh là có thể xuất bản như 1 website hoặc là xuất bản thành 1 chương trình ứng dựng độc lập từ CD-ROM. Lectora phân phối 1 cách phổ thông những kiểu công cụ thông dựng như: Văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình. Ngoài ra, có cả những công nghệ được ưa thích trên internet như là shock wave, Flash, HTMI… với Lectora, chúng ta sẽ tạo ra những nút bấm 3 hiện trạng bằng các ảnh hoạt hình nhưng mà ko cần có tri thức về lập trình, rà soát được toàn thể công đoạn hoặc chỉ 1 thời khắc chi tiết…

Bài học trong Lectora được xây dựng dựa trên những quy ước sau đây:

– 1 bài học được hiểu như 1 chương của cuốn sách (chapter).

– 1 bài học là tập trung 1 hoặc nhiều phần (sections).

– 1 phần bao gồm tập trung 1 hay nhiều trang (page).

– Trong 1 trang có các chủ đề học tập. 1 hoạt động học tập có thể là sự liên kết của nhiều hành động, động tác như: Đọc 1 đoạn văn bản, nhìn và quan sát 1 hình ảnh, lắng tai 1 âm thanh, quan sát 1 hoạt hình, thí nghiệm, thực hành ảo, mô phỏng hay 1 vài chỉ dẫn để tiến hành các bài tập… nhằm giúp HS lĩnh hội được tri thức, kỹ năng trong hành động.

Xây dựng nội dung cho khoá học online bằng ứng dụng Lectora:

Mẫu hình cấu trúc nội dung khoa học: Trong môi trường E-Learning, 1 khóa học được chia thành nhiều module không giống nhau. Trong mỗi module, có thể tách thành các module bé hơn (có thể tưởng tượng 1 cấu trúc cây các module). Như vậy, 1 khóa học như là 1 module chính, chứa các module con bé hơn. Việc phân phân thành các module tương tự sẽ mang đến nhiều thuận tiện: người kiến tạo nội dung có thể đưa ra 1 cấu trúc cây nội dung hoàn chỉnh, sau đấy có thể phân chia cho những người tham dự viết nội dung, mỗi người đảm trách 1 hoặc 1 số module nào đấy. Bản thân mỗi module sẽ được đóng gói lại theo các chuẩn định trước, mỗi gói này lúc đóng gói sẽ có kích tấc không giống nhau. Việc tách bé nội dung sẽ cho phép GV đơn giản tải từng phần lên mạng nối ghép lại với nhau. Đối với những gói quá to, bản lĩnh bị ngắt mạng hoặc lỗi truyền tải sẽ rất cao.

Cấu trúc 1 trang tài liệu trong Lectora

-. 1 trang tài liệu trong Lectora được cấu thành bởi 1 hay nhiều nhân vật nằm xen kẽ lẫn nhau. 1 nhân vật sẽ xác định 1 nội dung chi tiết. Chẳng hạn có image để hiển thị 1 hình ảnh, có Audio để kết nối với file âm thanh, có Textbox cho phép nhâp nội dung văn bản…

Sau đây là danh sách các nhân vật của Lectora:

AddAction

Thiết lập các hoat động xảy ra trong công đoạn học.

Add Equation

Đánh các kí hiệu và công thức toán học vào tài liệu.

Add Menu

Thiết kế thực đơn các hoạt động của bài học.

Add External HTML

Đưa 1 trang web vào nội dung học tập, qua đấy HS có thể duyệt nội dung của website ngay trong bài học nhưng mà ko cần mở của số

khác.

Add Document

Đính kèm 1 file văn bản vào nội dung học tập.

Add Table of contents

Thiết lập bảng mục lục của tài liệu

Add Button

Thiết lập biểu trưng Điều khiển của tài liệu.

AddAudio

Thiết lập kết nối với file âm thanh trong bài học.

Add IPIX

Thiết lập kết nối với file hhih ảnh IP IX trong taằi học.

AddVideo

Thiết lập kết nối với file video trong bài học.

AddAnimation

Thiết lập kết nối với file hình ảnh động trong bài học.

Add image

Đưa 1 hình ảnh vào tài liệu.

Add Text block

Nhập văn bản thuần tuý vào nội dung tài liệu.

Add Question

Thiết lập câu hỏi và đáp án trong bài học.

Add Page

Thêm 1 trang mới của tài liệu.

Add Section

Thêm 1 mục mới của tài liệu.

Add Chapter

Thêm 1 chương mới của tài liệu.

Mode/preview

Xem bài học lúc kết nối các hiệu ứng.

Publish /Publish lớn CDROM

Xuất bản bài học ra đĩa CD.

Publish /Publish lớn HTML

Xuất bản bài học lên web dưới dạng file HTML.

Publish /Publish lớn SCORM

Xuất bài bài học ra file SCORM.

Thông thường 1 bài học trong Lectora có cấu trúc như sau:

– Phần đầu xác định những tiêu chí cần đạt được, các đề xuất đối với HS, các tri thức cần biết để có thể xong xuôi khóa học.

– Phần thứ 2 chứa đựng nội dung bài học, trong đấy có thể gồm các hoạt động như: các hoạt động đọc- giải đáp câu hỏi, xem các đoạn video mô phỏng, khắc phục các bài tập, các thao tác tiến hành… Mỗi hoạt động này sẽ được trình bày bởi 1 nhân vật có tính năng tương đương.

– Phần cuối là các bài tập dưới dạng các câu hỏi trắc nghiệm và nhiệm vụ ủy quyền HS tại nhà.

Chú ý rằng trong công đoạn dạy học online, GV ko trực tiếp gặp gỡ HS, vì thế chẳng thể tiến hành trực tiếp các thao tác giảng dạy thông thường như trên lớp. Do đấy, việc xây dựng nội dung giảng dạy online đề xuất GV phải xây dựng các kịch bản, các thao tác ngắn gọn, dễ hiểu, cuốn hút người học vào nội dung học tập 1 cách tự giác, hăng hái.

Để xuất bản nội dung khóa học, ngày nay Lectora sử dựng 3 loại định dạng file chính như sau:

Publish / Publish lớn CDROM

Các gói nội dung trong Lectora được lưu Lại trong folder CD ở folder hiện giờ với file chạy LectoraViewer.exe và toàn thể các file chương trình nguồn của bài học trong Lectora; Sau đấy copy toàn thể folder CD ra đĩa CDROM để luận bàn thông tin với GV và HS lúc chẳng thể kết nối internet.

Publish / Publish lớn SCORM

Gói nội dung được lưu lại dưới dạng 1 file nén zip, cho phép gói tất cả các trang được tạo ra cộng với 1 file IMSmanifest.xml để sử dụng với các hệ LMS tương hợp với SCORM. Tài liệu này hỗ trợ cho LMS những hướng dẫn hiển thị và cấu trúc gói nội dung.

Publish / Publish lớn HTML

Tạo ra 1 folder HTML ở folder hiện giờ chứa các trang HTML, hình ảnh và các style sheet nhu yếu để xuất bản gói nội dung lên web.

Các file Lectora sẽ được lưu với tên tương ứng ở hộp thoại New title name và lưu vào folder nhưng mà ta chọn lọc lúc khởi động ứng dụng Lectora ở hộp thoại choose thư mục. Các nội dung được tạo ra trong Lectora có thể được xuất bản thành các gói web để đưa lên web server, cũng như gói SCORM để phân phát đến các hệ LMS tương hợp với SCORM, 1 IMS Content Package, hoặc như là 1 trang web đơn để tiện in ấn.

1 số điểm cần xem xét lúc thiết kế giáo án điện tử như sau:

  • Về tiêu chí bài dạy, thời kì và các bước lên lớp vẫn phải bảo đảm nguyên lý và cách thức dạy học bộ môn. Giáo án điện tử chẳng thể thay thế giáo án truyền thống, chẳng thể thay thế toàn thể vai trò của GV nhưng mà chỉ là 1 loại hình thiết bị dạy học để góp phần tăng lên chất lượng dạy học.
  • Bảo đảm mọi đề xuất tiến hành nội dung và cách thức dạy học bộ môn thích hợp với tâm lí thế hệ, trình độ nhận thức của HS. Nội dung tuyển lựa tiếng nói trong trắng, dễ hiểu.
  • Có tính mở, phát huy tối đa tính hăng hái, thông minh của HS. Tạo sự tương tác giữa HS với máy tính.
  • Cần cân nhắc lúc sử dựng hệ thống dạy học đa công cụ cho các nội dung thích hợp, với thời kì rất giảm thiểu trong 1 tiết học (ko sử dựng trong toàn thể tiết học).
  • Các tri thức được đưa vào trình chiếu dưới dạng các trang slide, các đoạn Video, Audio phải được tuyển lựa chuẩn xác, dễ hiểu trình bày được lôgic cấu trúc của bài dạy bao gồm cả kênh hình, kênh chữ, kênh tiếng tạo điều kiện hăng hái hóa công đoạn nhận thức, công đoạn tư duy của HS tránh lạm dựng trình chiếu 1 chiều.

Mời độc giả cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục huấn luyện trong mục biểu mẫu nhé.

  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT1
  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT2
  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT3

Xem thêm thông tin Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16

hoatieu.vn xin gửi đến thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16 để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch BDTX module THPT16 là bài thu hoạch về giấy tờ dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT. Mời thầy cô cùng tham khảo cụ thể và tải về bài thu hoạch tại đây.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT (41 module)
Bài thu hoạch BDTX module THPT16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ………

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc———————

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module THPT16: Giấy má dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT
5 học: …………..
Họ và tên: ……………………….
Đơn vị:……………………………..
Giấy má dạy học là tập trung các kế hoạch, số sách, tài liệu chuyên môn của môn học được sẵn sàng trước theo sự chỉ huy của nhà trường và sự cắt cử của tổ chuyên môn giúp GV thực thi dạy học trong công đoạn công việc để đạt được tiêu chí chất lượng dạy học đã đề ra.
Việc đổi mới cách thức dạy học gắn liền với việc xây dựng và quản lí, bảo quản giấy tờ dạy các môn học ở các trường THPT đã được khai triển từ cách đây hàng chục 5. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chỉ dẫn xây dựng, quản lí sử dụng giấy tờ dạy học hầu như chưa có bước đổi mới nào đáng kể; thậm chí, 1 số GV và cán bộ quản lí chưa thông suốt và chưa xây dựng được những mục tiêu của 1 bài học theo ý thức đổi mới. Trước đề xuất đổi mới giáo dục 1 cách cơ bản và toàn diện buộc mọi GV phải tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Chúng ta sẽ nghiên cứu đổi mới dần dần từng giai đoạn 1 của việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học (nắm bắt tiêu chí bài học; xây dựng kế hoạch bài học theo ý thức mới; tổ chức cho HS hoạt động học tập…); tiến đến đổi mới hoàn toàn việc dạy và học các môn học ở cấp trưng học.
Lược đồ hệ thống giấy tờ dạy học của môn học gồm:
1. Giấy má tổ chuyên môn (CM) là tập trung các văn bản chỉ huy chuyên môn của các ngành, những tài liệu chuyên môn về chương trình, khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kĩnăng, tiêu chí của môn học; các kế hoạch cắt cử dạy học, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, đăng kí thi đua, đăng kí học tập tăng lên chuyên môn nghiệp vụ… Giấy má này do tổ trưởng chuyên môn chủ trì xây dựng.
2. Thông tin chung là các tham số cho biết sơ bộ tên môn học, cấp học, lớp học, khuôn khổ chuyên môn, GV dạy… Thông tin này do GV bộ môn xây dựng.
3. Số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân (BDCMCN) là những thu thập biên chép và tự bồi dưỡng của GV trong các đợt huấn luyện chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn, hoặc tự bồi dưỡng về các lĩnh vực:
– Nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa.
– Các cách thức dạy học, kĩ thuật dạy học hăng hái bộ môn.
– Các kỹ năng dạy tích hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục.
– Các kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học bộ môn.
– Các kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
– Tự làm thiết bị dạy học.
– Kinh nghiệm dạy học phân hóa HS yếu kém.
– Kinh nghiệm bồi dưỡng HS giỏi.
– Kế hoạch tự bồi dưỡng thường xuyên.
– Những kinh nghiệm về sư phạm, giáo dục khác.
Số này do GV biên chép trong công đoạn công việc nhiều 5.
4. Số dự giờ là văn bản ghi các bình chọn của GV về tiết dạy của đồng nghiệp theo các mục tiêu tiết dạy nhằm rút kinh nghiệm học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ trong công đoạn công việc. Số dự giờ do GV xây dựng và biên chép lúc dự giờ thăm lớp đồng nghiệp.
5. Số điểm tư nhân là văn bản biên chép tóm lược những đặc điểm của HS về bộ môn và các bình chọn rà soát thường xuyên và định kì trong công đoạn HS theo học môn học.Số điểm tư nhân do GV bộ môn xây dựng và biên chép thường xuyên.
6. Số mượn thiết bị dạy học là số biên chép mượn công cụ, thiết bị dạy học của GV với nhà trường thường xuyên trong công đoạn công việc. Số này do nhà trường xây dựng và quản lí.
7. Số báo giảng ghi kế hoạch lịch dạy học của GV bộ môn theo kế hoạch tuần, học kì và cả 5 thích hợp với thời khóa biểu của nhà trường. Nội dung ghi cụ thể cho từng tiết dạy: tên bài dạy, lớp dạy, thiết bị dạy học. Người đảm trách thiết bị dạy học của trường sẽ căn cứ vào số này để phân phối cho GV sẵn sàng thiết bị dạy học. Số này do GV bộ môn xây dựng trước chí ít 1 tuần trước tiến hành.
8. Kế hoạch bài dạy (giáo án)
Giáo án là bản kế hoạch sẵn sàng trước của GV, ước tính những hoạt động học tập của HS trong tiết học, đề nghị những cảnh huống có thể gặp phải và dự định cách khắc phục để giúp HS tiến hành được tiêu chí bài dạy. Đây là tài liệu quan trọng nhất, buộc phải đối với mọi GV lúc dạy học. Nội dung của giáo án trình bày cách thức dạy học của GV, hoạt động của HS, tri thức căn bản.
Kiểu bài dạy. Tùy từng đặc thù môn học, có những kiểu bài dạy và cấu trúc giáo án không giống nhau. Thông thường có các kiểu bài dạy sau đây:
– Bài dạy lí thuyết, xây dựng các tri thức, kỹ năng mới.
– Bài dạy bài tập, áp dụng các tri thức lí thuyết vào việc khắc phục các vấn đề thực tế hoặc giải các bài tập.
– Bài dạy ôn tập, hệ thống khắc sâu lại các tri thức đã học.
– Bài dạy thực hành, áp dụng và đoàn luyện các kỹ năng thực hành, củng cố các tri thức đã học.
– Tiết rà soát là dạng đặc thù của bài dạy đuợc soạn theo cấu trúc riêng.
Ngoài ra, tùy theo từng môn có các kiểu bài dạy ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn, thăm quan dã ngoại…
9. 1 số để mắt tới lúc đồ mưu hoạch bài dạy: Giáo viên sẽ đồ mưu hoạch không giống nhau.
– Đối với các tiết tổ chức các hoạt động học tập trên lớp.
– Đối với các tiết thực hành.
– Đối với các tiết rà soát.
– Đối với các tiết tổ chức dạy học ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn.
– Tổ chức thăm quan dã ngoại.
Quy trình xây dựng giấy tờ dạy học gồm các bước:
Bước 1: Tổ chuyên môn trao đổi luận bàn về các văn bản chỉ huy của các ngành, xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn bao gồm: chương trình, sách giáo khoa, khung cung cấp chương trình, chuẩn tri thức kỹ năng của chương trình, khung ma trận đề rà soát, những vấn đề về sử dụng công cụ, thiết bị dạy học, những vấn đề về cách thức dạy học, các kĩ thuật dạy học hăng hái…
Bước 2: Hoàn thiện các thông tin chung.
Bước 3: Mày mò và cập nhật số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân: Khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kỹ năng, sử dụng thiết bị dạy học, sử dụng kĩ thuật dạy học hăng hái…
Bước 4: Mày mò và cập nhật số dự giờ, số mượn thiết bị dạy học, xây dựng số điểm tư nhân.
Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài dạy. Dựa vào thời khóa biểu để xây dựng số báo giảng.
Quy trình ra đề kiềm tra theo chuẩn tri thức, kỹ năng trong giấy tờ dạy học:
Do có những nội dung trong chuẩn tri thức, kỹ năng còn được miêu tả 1 cách chung chung, nói chung nên để bình chọn được kết quả học tập của HS 1 cách khách quan, công bình và khoa học thì việc soạn câu hỏi theo chuẩn tri thức, kỹ năng có thể tiến hành theo thứ tự sau:
– Bước 1: Phân loại các chuẩn tri thức, kỹ năng theo cấp độ nhận thức (Nhận biết, thông hiểu, áp dụng).
– Bước 2: Xác định các thao tác, hoạt động tương ứng của HS theo chuẩn tri thức, kỹ năng cần rà soát, bình chọn.
– Bước 3: Xác định 1 số dạng toán căn bản và những sai trái thường gặp của HS lúc làm bài rà soát.
– Bước 4: Xây dựng bảng trọng số của bộ câu hỏi.
– Bước 5: Biên soạn, thí điểm, phân tách, hoàn thiện bộ câu hỏi.
Việc biên soạn đề rà soát cần tiến hành theo thứ tự sau:
Bước 1. Xác định mục tiêu của đề rà soát.
Bước 2. Xác định vẻ ngoài đề rà soát.
– Bước 3. Thiết lập ma trận đề rà soát.
Bước Tổ hợp câu hỏi theo ma trận đề.
Bước 5. Xây dựng chỉ dẫn chấm (đáp án) và thang điểm.
Bước 6. Xem xét lại việc biên soạn đề rà soát.
Ma trận đề là 1 bảng có 2 chiều, 1 chiều là nội dung hay mạch tri thức, kỹ năng chính cần bình chọn, 1 chiều là các ngành độ nhận thức của HS theo các ngành độ: nhận diện, thông hiểu và áp dụng. Trong mỗi ô là chuẩn tri thức kỹ năng chương trình cần bình chọn, tỷ lệ % số điểm, số lượng câu hỏi và tổng số điểm của các câu hỏi. Số lượng câu hỏi của từng ô lệ thuộc vào chừng độ quan trọng của mỗi chuẩn cần bình chọn, lượng thời kì làm bài rà soát và trọng số điểm quy định cho từng mạch tri thức, từng cấp độ nhận thức.
Mày mò việc sử dụng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.
Sử dụng:
Giáo án được GV xây dựng, cập nhật thường xuyên và sử dụng trong công đoạn dạy, được nhà trường rà soát thường xuyên theo quy định.
Số báo giảng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
Số mượn thiết bị dạy học cũng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
Số dự giờ được GV sử dụng và cập nhật thường xuyên theo quy định.
Số bồi dưõng chuyên môn được GV biên chép và cập nhật thường xuyên.
Tất cá các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được nhà trường rà soát thường xuyên và đột xuất.
Bảo quản:
GV có nghĩa vụ cập nhật và bảo quản giáo án, số báo giảng, số dự giờ, số bồi dưỡng chuyên môn.
Tổ trưởng chuyên môn bảo quản kế hoạch của tổ chuyên môn
GV và nhân viên thiết bị dạy học cập nhật và bảo quản số thiết bị dạy học
Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV và nhà trường bảo quản theo quy định.
Bổ sung:
Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV cập nhật bổ sung theo quy định.
Mày mò các năng lực nhu yếu ở người thầy cô giáo trưng học cơ sở trong xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học.
Trước đề xuất xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học ở trường THPT, yêu cầu người GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức dạy học:
GV phải biết kiếm tìm, nghiên cứu thông tin mới, tài liệu tham khảo, các cảnh huống phần mềm trong thực tế để đoàn luyện cho HS. Để bắt nhịp được với đổi mới của giáo dục phổ biến và sự tăng trưởng của khoa học công nghệ, người GV phải kiếm tìm tài liệu tham khảo, nghiên cứu thông tin. Trong điều kiện thông tin bùng nổ, tài liệu nghiên cứu nhiều chủng loại, phong phú người GV phải có năng lực kiếm tìm chọn lọc tài liệu, nghiên cứu thu nạp, xử lí thông tin, mới mang đến kết quả. Mặt khác, để đoàn luyện HS phần mềm tri thức vào thực tế, GV phải biết kiếm tìm các cảnh huống phần mềm.
GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức thực hành, ngoại khóa, sử dụng các thiết bị dạy học. GV phải biết xếp đặt và xác định rõ chừng độ cho các hoạt động thực hành, các hoạt động ngoại khóa, xác định những đề xuất chi tiết và nội dung hoạt động tương ứng cùng các chỉ dẫn nhu yếu về tổ chức các hoạt động này. GV cũng phải có năng lực sử dụng các công cụ dạy học nhất là công cụ công nghệ thông tin để phát huy vai trò quan trọng của nó trong công đoạn dạy học.
GV phải có kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp đề xuất đổi mới cách thức dạy học. Để tiến hành được cách thức dạy học hăng hái hóa hoạt động học tập của HS, GV nhu yếu những kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp. Ấy là những kỹ năng dạy học mới đã được giới thiệu nhưng mà chưa được tầm thường trong tất cả GV như: kỹ năng dạy học cộng tác theo nhóm bé, kỹ năng sử dụng công cụ dạy học như 1 nhân vật giáo dục, kỹ năng sử dụng các công cụ nghe nhìn chuyên dụng cho cho dạy học, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, kỹ năng làm các bộ dụng cụ bình chọn kết quả học tập… Những kỹ năng dạy học GV đã có nhưng mà nay cần phải đổi mới như: kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học, kỹ năng đồ mưu hoạch bài học, kĩ thuật đặt câu hỏi, kỹ năng chỉ dẫn thực hành, kỹ năng đổi mới rà soát bình chọn kết quả học tập của HS, kỹ năng thiết lập các chiến lược dạy học…
(Nêu 1 số nguyên cớ chủ quản dẫn tới những giảm thiểu trong xây dựng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học ở trường THPT ngày nay)
Nguyên nhân của hiện trạng này có thể có nhiều, trong đấy có 1 số nguyên cớ chủ quản sau;
– Nhận thức của 1 số GV còn giảm thiểu, chưa thấy sự cần phải có phải đổi mới cách thức dạy học và rà soát bình chọn, đặc thù là việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Nhiều GV cho rằng cứ dạy tốt theo cách thức cũ cũng có thể chuyển tải được hết nội dung tri thức của sách giáo khoa cho HS và bảo đảm đuợc 1 tỷ lệ HS đuợc lên lớp, như thế là việc dạy học đã có hiệu quả tốt. Họ cho rằng giấy tờ dạy học không phù hợp gì tới công đoạn dạy học, việc lên lớp ko có giấy tờ dạy học vẫn xảy ra ở các trường học.
– 1 số cán bộ quản lí và GV quan niệm việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học được thực hiện xưa nay là việc sẵn sàng, sử dụng những thiết bị dạy học đương đại như máy chiếu bản trong (overhead), máy vi tính, projector, thí nghiệm ảo, Microsoft Power Point… trong giờ học. Họ đích thực chưa thấy được sự dị biệt cơ bản giữa tiêu chí của bài học nhưng mà chúng ta chờ đợi ngày nay và tiêu chí của bài dạy trước đây.
– 1 số GV có mong muốn hăng hái tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học 1 cách đích thực, nhưng mà vì chưa nắm được tiêu chí và đặc điểm của sự đổi mới nên đã đi theo những hướng chưa thật chuẩn xác.
– 1 gian khổ rất to tác động tới việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới dạy học ở cấp THPT là khối lượng tri thức của chương trình còn quá tải, khi mà đấy thời lượng dành cho mỗi môn học lại quá giảm thiểu. Thời gian của mỗi tiết học ở THPT chỉ có 45 phút nên gian khổ cho việc tổ chức dạy học theo cách thức mới.
– Vấn đề sĩ số của lớp học quá to ở nhiều trường THPT trọng tâm của các tỉnh, thị thành (mỗi lớp có thể lên tới 50, 60 HS) cũng là gian khổ cho việc xây dụng giấy tờ dạy học. Sĩ số đấy to gấp đôi, hoặc gấp 3 sĩ số của 1 lớp học ở cấp này của các nước trên toàn cầu, với những lớp đông tương tự, ngay việc quản lí thứ tự của lớp trong tiết học đã là gian khổ, nên GV rất gian khổ trong tổ chức cho HS hoạt động để chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng.
– Hiện nay trang thiết bị dạy học của các trường THPT dù rằng đã được đầu cơ trang bị nhưng mà còn rất giảm thiểu, thiếu đồng bộ. Trường lớp được xây dựng theo các quy cách cũ, ko thuận tiện cho việc bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.
– Cũng cần phải nêu thêm 1 nguyên cớ tác động tuy gián tiếp nhưng mà có ảnh hưởng rất to tới công đoạn đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học ở bậc THPT là sự đổi mới chậm chập việc bình chọn kết quả học tập của HS. Hiện nay, mục tiêu của các kì thi còn nặng về rà soát nội dung, chưa chú trọng bình chọn năng lực của người học. Cùng lúc việc bình chọn kết quả giảng dạy của GV cũng chưa thật ân cần tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới giáo dục. Chẳng hạn, lúc dự giờ thao giảng, nhiều người chỉ chuyên chú xem GV dạy chuẩn xác hay ko chuẩn xác, có đặt nhiều câu hỏi hay ko, có bị “cháy” giáo án hay ko?… Họ ít lúc để mắt tới phân tách xem phương pháp nhưng mà GV tổ chức cho HS hoạt động học tập trong tiết học có thích hợp hay ko? (Từ khâu sẵn sàng cho tới lúc thực thi dạy học) Hiệu quả dạy học của tiết học cao hay thấp? Vì thế GV ít chú trọng tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học.
Trên đây chỉ là 1 số nguyên cớ tác động tới việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học ở bậc THPT, chứng ta còn có thể nêu thêm những nguyên cớ khác tùy theo đặc trưng của tùng vùng miền, môn học chi tiết.
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG XÂY DỰNG
VÀ SỬ DỤNG HỒ SƠ DẠY HỌC
Khi công nghệ thông tin (CNTT) tham dự vào công đoạn dạy học sẽ làm môi trường dạy học chỉnh sửa. Nó có ảnh hưởng mạnh bạo đến mọi thành tố của công đoạn dạy học: tiến hành vai trò giảng dạy như 1 GV; hỗ trợ tài liệu học tập mới có tính tương tác, dễ mang, dễ cập nhật; hỗ trợ nguồn khoáng sản học tập phong phú, dễ truy cập, cung cấp và có thể khai thác cởi mở; hỗ trợ dụng cụ học tập mới có bản lĩnh cộng tác với người sử dựng để giúp người sử dựng khai thác hết bản lĩnh làm việc của họ; hỗ trợ kênh giao tiếp, truyền thông mới giữa GV và HS, giữa HS với HS, giữa HS với các nhân vật khác; hỗ trợ dụng cụ rà soát, bình chọn mới khách quan và chuẩn xác; hỗ trợ 1 hệ thống và dụng cụ quản lí dạy học mới…
Khi sử dựng các thành phầm CNTT, GV có thể khai thác các điểm mạnh về mặt kĩ thuật và tiềm năng về mặt sư phạm của CNTT để xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường THPT.
Hoạt động 1. Mày mò bản lĩnh ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học.
Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học sẽ đem lại những ảnh hưởng hăng hái như sau:
– Cung cấp nguồn thông tin đủ dùng, phong phú:
Quá trình dạy học với các cách thức, giải pháp ko có đa công cụ multimedia phân phối, luôn gặp phải gian khổ là GV và HS chỉ có số lượng tài liệu và thông tin rất giảm thiểu. Nội dung tài liệu được thể hiện trên giấy do chướng ngại về kĩ thuật in ấn, giá cả, kích tấc và trọng lượng của sách giáo khoa… nên tác giả của sách phải thể hiện cực kỳ cô đọng, chẳng thể biên soạn cuốn sách có nội dung phong phú để phục vụ nhu cầu của người đọc, ko có nhiều tài liệu tham khảo, nhiều tranh ảnh minh hoạ…
Thành phầm CNTT có thể tạo ra những tài liệu đa công cụ chất lượng cao, đơn giản lưu giữ và khai thác chúng, chất lượng tài liệu được cải thiện đáng kể. Do lưu trữ trên ổ cứng hoặc đĩa CD ROM, các tài liệu cho phép khai thác sử dựng nhiều lần nhưng mà ko làm giảm chất lượng. Nghe tài liệu âm thanh vài chục lần thậm chí vài trăm lần với máy tính song chất lượng chẳng hề chỉnh sửa. Các ổ cứng cũng như CD ROM có thể lưu giữ các tài liệu âm thanh chẳng hề gian khổ và tốn kém.
Với 1 chiếc máy tính tư nhân với ổ cứng dung lượng to ngày nay có thể chứa đựng 1 lượng thông tin đồ sộ. Với bản lĩnh lưu trữ thông tin lớn to tương tự, HS ngoài các nội dung học trên lớp còn có thể tham khảo các tài liệu phân phối phong phú nhiều chủng loại, các tự điển bách khoa toàn thư multimedia trên ổ cứng, trên đĩa CD ROM hoặc trên mạng Internet. Nhờ bản lĩnh hỗ trợ tư liệu đặc thù của hệ thống multimedia có thể cho phép GV và HS tổ chức các hoạt động dạy học theo những phương thức mới chủ động hơn, phong phú hơn và hăng hái hơn. Hiện nay HS cảm thấy rất ngại lúc tra cứu tài liệu vì thiếu thời kì và thiếu nguồn tài liệu tra cứu. Nhưng với giấy tờ dạy học đã được multimedia hóa sẽ giúp HS giải quyết được gian khổ này. Máy tính với những ứng dụng tin học đã giúp xử lí thông tin cực kỳ mau chóng, chỉ với 1 động tác kích chuột HS tìm thấy ngay thông tin nhưng mà mình mong muốn. Kể cả các thông tin còn nằm trên máy chủ nào đấy trên toàn cầu thì thời kì truy cập cũng chỉ tính bằng phút thậm chí là mấy giây thôi. Truy cập thông tin đơn giản, mau chóng giúp HS phấn chấn, háo hức, tiết kiệm thời kì và hiệu suất học tập được phát triển hơn.
– Giúp GV đổi mới cách thức dạy học, bình chọn kết quả học tập của HS:
Khi ứng dựng CNTT trong dạy học, HS được nhúng vào 1 môi trường học tập cực kỳ mới mẽ, lôi cuốn, nhiều chủng loại và có tính phân phối cao.
Môi trường này chưa hề có trong nhà trường truyền thống trước đây. Ấy là các vi toàn cầu, các môi trường hoạt động hăng hái mới mẻ như mạng internet, thư viện điện tử, bài giảng điện tử, lớp học ảo, trường học ảo… CNTT mở ra triển vọng lớn to trong việc đổi mới các cách thức và vẻ ngoài dạy học. Những xu thế dạy học ko truyền thống như dạy học theo lí thuyết kiến tạo, theo ý kiến hoạt động, dạy học phát hiện và khắc phục vấn đề… càng có nhiều điều kiện để áp dựng phổ thông và khai thác triệt để điểm mạnh và giải quyết các giảm thiểu (về mặt thời kì, ko gian và sự phân hoá của HS) đối với mỗi cách thức đấy. Trong môi trường CNTT, các vẻ ngoài dạy học như dạy học nhất tề, dạy học theo nhóm, dạy học tư nhân cũng từ đấy nhưng mà sẽ có đổi mới như: tư nhân tự học, tự nghiên cứu và làm việc với máy vi tính, các tư nhân nghiên cứu, trao đổi và làm việc theo các nhóm cởi mở các nhóm ảo. Xuất hiện việc dạy học theo vẻ ngoài lớp học phân tán qua mạng, dạy học từ xa, dạy học cá thể hoá, dạy học qua cầu truyền hình…
Đặc thù với mạng internet, HS có thể tự tra cứu thông tin ở các thư viện điện tử, cập nhật các thông tin mới mẻ, luận bàn với các HS và GV ở nhiều nơi không giống nhau trên toàn cầu vào bất kì thời khắc nào đấy. Đối với HS, toàn cầu kiến thức được mở mang hầu như vô bờ, họ ko bị giới hạn bởi nguồn kiến thức (hầu như độc nhất vô nhị) của GV trên lớp và sách giáo khoa hàng 5 nữa. Điều đấy mở ra bản lĩnh tăng trưởng năng lực tự học, tự kiếm tìm kiến thức, làm việc độc lập của từng HS. Trong tình hình đấy, người ta lo âu vai trò của GV sẽ bị thủ tiêu hay suy giảm. Nhưng thực tiễn, vai trò của GV vẫn cực kỳ quan trọng và được phát huy hiệu quả hơn trong công đoạn dạy học. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng thuộc tính của vai trò này đã chỉnh sửa: GV chẳng phải là nguồn kiến thức độc nhất vô nhị, chỉ tiến hành việc chuyển tải kiến thức nhưng mà GV giữ vai trò chỉ dẫn, chỉ huy. Mối quan hệ giữa GV và HS trong bối cảnh mới cũng sẽ khác với trước đây. GV chẳng phải là người ra lệnh cho HS phải học cái gì nhưng mà biến thành người cố vấn, trợ tạo điều kiện cho HS. GV nhập vai trò tổ chức, điều khiển, phê chuẩn việc ảnh hưởng lên cả HS và môi trường CNTT. Trong điều kiện sử dựng các công cụ dạy học truyền thống, 1 GV phải ân cần đến vài chục HS thì dù có phấn đấu tới đâu, việc bảo đảm nguyên lý phân hóa trong dạy học vẫn giảm thiểu. Tất cả các cụ thể diễn biến của hoạt động học tập của mỗi HS khó được GV nắm bắt được và xử lí kịp thời. Về lí luận, cần phải giúp từng HS làm việc theo đúng bản lĩnh thích hợp năng lực về kiến thức và các kỹ năng của mình, có nhịp điệu làm việc thích hợp với tư nhân. Điều này hoàn toàn có thể tiến hành được nếu có CNTT viện trợ. Khi này mọi HS đều có 1 “trợ giảng” riêng, có thể được viện trợ tại thời khắc gian khổ bất kì, đúng khi với liều lượng phù hợp. Mỗi HS đều có 1 phương án làm việc riêng, tiến hành nhiệm vụ thích hợp tư nhân HS đấy (có thể giống nhưng mà cũng có thể khác tất cả các bạn khác), các nhiệm vụ này được ứng dụng hoạch định thích hợp. Điều này còn tạo thời cơ học tập cho HS vùng bóng gió heo lánh, HS khuyết tật, góp phần tăng lên tính nhân bản cho nền giáo dực. Phần mềm được sử dựng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay và bảo đảm mối liên hệ ngược của GV đến từng HS trong công đoạn dạy học, lúc làm bài tập trên máy vi tính, HS sẽ được kiểm soát, được tương trợ và bình chọn tại chỗ.
Trong 1 lớp học, HS có trình độ không giống nhau. Đây là 1 gian khổ đối với các GV lúc giảng dạy theo cách thức truyền thống, với hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia cho phép giải quyết được gian khổ này. Khi HS mắc nhiều lỗi khi mà làm bài tập, máy vi tính sẽ khuyến cáo và đưa ra cho HS những bài tập có cùng nội dung nhưng mà chừng độ dễ hơn. Khi làm việc độc lập với máy tính HS có thể tự chọn cho mình 1 nhịp điệu làm việc thích nghi riêng. Trong nhiều ứng dụng dạy học có sự tương tác của HS với máy tính người ta còn đưa vào đồng hồ đếm thời kì cho phép HS theo dõi được vận tốc làm bài hoặc để khống chế thời kì làm bài. HS có thể tự định lượng được tân tiến của mình trong học tập.
Khi sử dựng hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia, các chuyên gia giáo dực và tin học đã cộng tác thiết kế các ứng dụng dạy học nhằm tạo điều kiện cho HS có thể làm việc độc lập và tự học với bản lĩnh lường trước được những gian khổ HS gặp phải lúc thực hiện các hoạt động lĩnh hội tri thức và luyện tập kỹ năng, các ứng dụng đã đưa ra những lời giảng giải, chỉ ra các nguyên cớ mắc lỗi, đưa vào các nội dung phân phối lí thuyết, các bài tập bổ trợ… Quá trình học tập của HS ko còn bị dựa dẫm hoàn toàn vào nội dung bài giảng của GV như trong các cách thức truyền thống (giảng dạy mặt đương đầu).
Nhờ việc tổ chức hệ thống dữ liệu đơn giản truy cập, thứ tự học tập ko nhất quyết phải được thực hiện theo 1 trình tự nhất mực. Máy vi tính cho phép HS tiến hành đơn giản các hoạt động luyện tập. HS có thể sử dựng cách thức quy nạp hoặc suy diễn…
– Tạo ra nhiều hoạt động học tập lôi cuốn và duy trì sự hứng thú học tập của HS:
Trong ổ cứng của máy tính, CD ROM là cơ sở dữ liệu, hỗ trợ cho HS các tài liệu học tập lôi cuốn về nội dung văn bản, hình ảnh động, tĩnh, âm thanh, các đoạn video clip… nhưng mà các tài liệu học tập thông thường khác chẳng thể có được. Nhiều hoạt động học tập đã được thiết kế thành các ứng dụng trò chơi học tập. Mỗi lúc xong xuôi các bài tập, HS có thể thu được từ máy những nhận xét chuẩn xác, những lời khen lúc đạt được kết quả tốt và những lời hướng dẫn lúc kết quả chưa đạt đề xuất… HS ko cảm thấy mệt mới, buộc phải nhưng mà cảm thấy hứng thú tiến hành các trò chơi học tập, hứng thú học tập.
Trong công đoạn học tập, tuỳ theo cảnh ngộ, điều kiện vốn tri thức của từng HS có không giống nhau, mỗi HS cần có những đề xuất viện trợ không giống nhau. Khi thiết kế ứng dụng, các các kiến trúc sư đã đưa vào nhiều chương trình viện trợ HS vượt qua gian khổ lúc gặp phải trong công đoạn học tập. Mỗi lúc HS gặp phải gian khổ có thể đơn giản đề xuất máy đưa ra các chương trình viện trợ. HS có thể nạp dữ liệu vào máy tính, chỉnh sửa dữ liệu và được kết quả mới.
Do hiện ra máy tính vạn năng, hiện ra các sách giáo khoa điện tử vì thế các bảng tra cứu, số tay toán học, bàn tính gảy, thước tính… sẽ được phê chuẩn lại (về bản lĩnh còn đó hoặc bản lĩnh sử dựng trong các cảnh huống sư phạm giảm thiểu nào đấy). Để tăng lên chất lượng dạy học, cần hiểu rằng chỉ riêng máy vi tính thì ko đủ nhưng mà cần tăng mạnh nghiên cứu tạo ra môi trường đa công cụ gồm có máy tính, video, máy chiếu, mạng internet, website giáo dực…
Trong 1 lớp học, chứng ta thường gặp 1 số HS luôn có tâm lí rụt nè, mặc cảm ít lúc dám phát biểu nghĩ suy của mình trước lớp. Những HS này thường có kết quả học tập thấp hơn các HS khác. Các HS này thường có tâm lí sợ mắc lỗi trước mọi người. Tự các em vẫn có thể làm việc và tương tác với máy tính cả lúc ko có GV. Làm việc độc lập với máy tính sẽ dần dần giúp các HS này giải quyết được tâm lí mặc cảm, nhát gan trong học tập. Việc sử dựng CNTT ngay lúc ngồi trên ghế nhà trường đã trục tiếp góp phần tạo nên và tăng trưởng kỹ năng sử dựng thuần thục máy vi tính và làm việc trong môi trường CNTT cho HS phổ biến. Đây là những kỹ năng chẳng thể thiếu của công nhân trong thời đại tăng trưởng của CNTT. Sử dựng CNTT trong công đoạn tích lũy và xử lí thông tin đã giúp tạo nên và tăng trưởng cho HS cách khắc phục vấn đề hoàn toàn mới, đưa ra các quyết định trên cơ sở kết quả xử lí thông tin. Cách học này tránh được kiểu học vẹt, họ ứng phó, máy móc, nhồi nhét tiêu cực trước đây, nó yêu cầu sự độc lập, tự giác và nghiêm chỉnh của HS trong học tập. Trong công đoạn học tập với sự viện trợ của CNTT, HS có điều kiện tăng trưởng năng lực làm việc với cường độ cao 1 cách khoa học, đức tính chuyên cần, chuyên cần, bản lĩnh độc lập, thông minh, tự chủ và kĩ luật cao. Việc tự bình chọn, rà soát tri thức bản thân bằng các ứng dụng trên máy vi tính cũng giúp HS đoàn luyện đức tính trưng thực, cẩn thận, chuẩn xác và kiên cường, bản lĩnh quả quyết.
Với việc ứng dựng công nghệ thông tin và liên kết các cách thức dạy học hăng hái, GV sẽ tổ chức được các hoạt động học tập nhiều chủng loại, phong phú, đạt hiệu quả cao.
Trong công đoạn xử lí dữ liệu để đáp ứng những thành phầm thích hợp với tiêu chuẩn, tiêu chí cần có 1 số ứng dụng phân phối, chả hạn như: 1 số văn bản, tệp tin được lưu dưới định dạng pdf cần có Adobe Reader mới đọc được. 1 số đoạn video, hình ảnh cần chuyển định dạng cho thích hợp việc sử dựng như ứng dụng: xUisoft, macromedia. 1 số ứng dụng cắt, ghép phim: Movie maker, Hero supper Player… 1 số ứng dụng phân phối soạn giảng như: Photo stoiy (tạo album ảnh động), Flash Player (tạo hiệu ứng chữ), Violet (trắc nghiệm), Proshow gold (đồng hồ), Micorosoft Encarta (bộ sưu tập các video, hình ảnh, thông tin, trò chơi về động vật)…
Việc truy cập internet tạo cho GV niềm ham mê, hứng thú trong học tập và giảng dạy, thực hành bản lĩnh làm việc và nghiên cứu độc lập. GV có thể chủ động, kết hợp nhiều nguồn tri thức, kỹ năng trong 1 bài giảng có sử dựng công nghệ. Ngoài ra, công nghệ giúp chúng ta có thể tiến hành nhiều công tác đồng thời, có bản lĩnh chuyển sự để mắt tới 1 cách mau chóng, thời kì phục vụ nhanh, luôn tiến hành kết nối, thức đẩy công đoạn làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn nữa, công nghệ kết hợp các nguồn kiến thức lại với nhau, kết nối công dân thế giới. Điều này khiến cho ko gian địa lí bị xóa nhòa và công nghệ biến thành 1 phần trong cuộc sống.
Hoạt động 2. Mày mò những cấp độ ứng dựng CNTT trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường trưng học cơ sở.
THÔNG TIN PHẢN HỒI
Việc ứng dựng CNTT trong xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học ở trường THPT biểu lộ rất nhiều chủng loại, trong thực tiễn nó được khai triển ở các chừng độ rất không giống nhau. Tuy từng trường hợp chi tiết, tuỳ chừng độ nhận thức và kỹ năng công nghệ thông tin của GV, trang thiết bị nhưng mà các trường ứng dựng CNTT ở chừng độ không giống nhau:
– Mức l, ứng dựng CNTT viện trợ GV 1 số thao tác nghề nghiệp:
Trong công đoạn dạy học, GV phải làm 1 loạt công tác như soạn thảo giáo án, ra bài rà soát, nhận xét HS, sẵn sàng các đồ dùng dạy học, các tài liệu cho tiết học… Rất nhiều công tác tương tự sẽ được viện trợ bởi các thiết bị CNTT như chương trình soạn thảo văn bản, bảng tính Excel, các thiết bị quét tư liệu ảnh, chụp ảnh tư liệu. Giáo án sẽ được soạn bởi các ứng dựng văn phòng, các bài rà soát test có thể được chọn lọc bởi nhà băng đề trắc nghiệm, in ấn nhờ ứng dụng dụng cụ viện trợ riêng. Các tư liệu chuyên dụng cho bài dạy học được lấy từ các website trên Internet, được sao chụp từ máy scaner… Nhờ các thiết bị CNTT nhưng mà công việc sẵn sàng của GV đơn giản hơn và chất lượng được phát triển hơn hẳn. Khi này các thiết bị CNTT ko cần nhiều, chỉ cần 1 vài máy vi tính và bộ thiết bị máy quét ảnh, máy photo, 1 máy tính có kết nối Internet, 1 máy in là đủ chuyên dụng cho cho tất cả GV của trường. Đây là chừng độ thấp nhất nhưng mà tầm thường nhất ngày nay.
– Mức 2, ứng dựng CNTT phân phối 1 khâu trong công đoạn dạy học.
Ngoài việc sử dựng CNTT để sẵn sàng cho tiết dạy học chi tiết, GV có thể sử dựng CNTT để phân phối 1 công tác nào đấy trong công đoạn dạy học. Ví dự thay cho việc dùng phấn viết lên bảng đen truyền thống GV dùng máy chiếu để biểu diễn những nội dung tri thức toán học mấu chốt. Việc trình chiếu bài dạy học giúp GV có thể đưa các thông tin ra mau chóng, ngoài kênh chữ còn kèm theo các kênh âm thanh, hình ảnh, phim… có thể tạo ra hiệu ứng tốt đến HS. Khi này, lớp học chỉ cần trang bị máy chiếu multimedia projector, GV chỉ cần kèm theo 1 máy vi tính là đủ. Đây là chừng độ nhưng mà nhiều trường đang khai triển. Tuy vậy CNTT chỉ được ứng dựng trong cảnh huống dạy học nhất tề là chủ quản, chưa phân phối đến những vẻ ngoài dạy học tư nhân và dạy học theo nhóm, các ứng dụng được sử dựng nhưng mà chỉ là trình chiếu cho cả lớp theo dõi.
– Mức 3, ứng dựng CNTT phân phối việc tổ chức hoạt động dạy học 1 số chủ đề theo chương trình dạy học
Ngoài việc trình chiếu thông tin, GV sử dựng các ứng dụng dạy học được cài vào các máy tính. Dưới sự chỉ dẫn của GV, từng HS làm việc trong môi trường do ứng dụng dạy học tạo ra, tương tác với các nhân vật trên màn hình và từ đấy tiếp cận những định nghĩa, định lí, giải bài tập và những kỹ năng mới. Với chừng độ này, từng HS có dịp làm việc với máy vi tính, tự mình thí nghiệm, dự báo, rà soát giả thuyết, từng tư nhân làm việc với vận tốc tùy thuộc bản lĩnh của mình. HS đạt được trình độ không giống nhau tuỳ năng lực từng em. Khi này việc tư nhân hoá trong dạy học sẽ đạt được trình độ cao. Để đạt được chừng độ này, cần có các ứng dụng dạy học tốt, dành cho tầng lớp học không giống nhau. Không những thế, cần trang bị máy tính đủ để mỗi HS có dịp sử dựng máy tính thường xuyên khi mà học toán. Máy vi tính có thể được trang bị tập trưng trong 1 hoặc vài phòng máy (computer lab), hoặc đưa về từng phòng học bộ môn Toán (mỗi phòng có vài máy tính). Chừng độ này chỉ có ở 1 số trường có điều kiện và tập trưng ở khu vực đô thị.
– Mức 4, tích hợp CNTT vào toàn thể công đoạn dạy học.
Chừng độ nhưng mà việc ứng dựng CNTT đều được tính tới trong công đoạn khai triển mỗi thành tố của công đoạn dạy học. Việc ứng dựng CNTT được đưa vào 1 cách tối ưu nhằm mang lai hiệu quả cao. Như vậy, bản lĩnh ứng dựng CNTT phải được tính tới lúc phê chuẩn từng yếu tổ của công đoạn dạy học ở trường THPT.
– Mức 5, ứng dựng CNTT vào dạy học qua mẫu hình e-learning:
Chừng độ này đã đưa tới mẫu hình “trường học sáng dạ”. Đây là 1 kiểu trường học mới. Đặc điểm của nó là cực kỳ giàu công nghệ và phương thức làm việc khác với nhà trường truyền thống, tập trưng vào HS với sự phân phối đắc lực của CNTT. chương trình học được GV thiết kế thích hợp với trình độ, ước muốn của HS. Vận tốc dạy học và cách thức thích hợp với bản lĩnh nhận thức của HS. HS có dịp được tự học 1 cách chủ động, thông minh, phát hiện và khắc phục vấn đề theo cá tính nghiên cứu khoa học với sự viện trợ của GV; việc dạy học bằng lớp học ảo theo vẻ ngoài e-learning, m-learning. Như vậy, CNTT có thể phân phối, hỗ trợ dụng cụ và khoáng sản để HS tiến hành các hoạt động sau: Tính toán xử lí thông tin nhờ các chương trình ứng dựng, luận bàn, thể hiện kết quả nghiên cứu nhờ các ứng dụng dụng cụ trình chiếu, luận bàn với GV, HS ở xa phê chuẩn chat, hoặc forum, làm bài rà soát bình chọn nhờ các module thi online. Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học cần tuỳ theo điều kiện chi tiết về ứng dụng, thiết bị, khoáng sản, trình độ HS… để khai thác hết các bản lĩnh của CNTT nhằm giúp HS tích luỹ tri thức và kinh nghiệm nhờ các hoạt động nhiều chủng loại trên. Bảo đảm cho HS THPT tạo nên và tăng trưởng năng lực tự học, tự nghiên cứu để tiếp cận với cách học ở đại học. Phần mềm có các tương tác đồng bộ và ko đồng bộ giữa các HS và GV, phân phối GV tổ chức bình chọn và giúp HS tự bình chọn kết quả học tập.
Việc ứng dựng CNTT trong dạy học sẽ giúp duy trì và phát huy việc học phê chuẩn kiến tạo xã hội. Trong dạy học, kiến tạo xã hội được tiến hành tốt nhất phê chuẩn các hoạt động cùng nhau khắc phục nhiệm vụ nhận thức để từ đấy tạo nên năng lực tiến hành mới. Hạ tầng để tiến hành đề xuất này là hệ thống khoáng sản, bao gồm các video dip, nhà băng câu hỏi trắc nghiệm, bộ số liệu mẫu chuyên dụng cho cho các tính toán, thư viện mẫu hình dạy học ảo tương tác được… Cơ sở kĩ thuật là các ứng dụng, các kĩ thuật thiết kế tương tác, tổ chức dữ liệu. Điều này rất thích hợp với nguyên lắc hình thành môi trường học tập kiến tạo theo định hướng đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT ngày nay.
Hoạt động 3. Minh họa việc ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ kế hoạch dạy học (giáo án, bài giảng).
THÔNG TIN PHẢN HỒI
Giấy má dạy học của GV ở trường THPT gồm kế hoạch dạy học, giáo án, tài liệu chuyên môn, số thu thập tri thức, ma trận và đề thi… Sau đây là minh họa cho việc ứng dựng CNTT để soạn kế hoạch dạy học theo bài học (còn gọi là giáo án, bài soạn) góp phần tiến hành đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT.
1. Khái niệm kế hoạch bài học điện tử (giáo án điện tử)
Giáo án dạy học là dàn ý lên lớp của thầy cô giáo bao gồm nhan đề của bài lên lớp, mục tiêu giáo dực và giáo dưỡng, nội dung, cách thức, thiết bị, những hoạt động chi tiết của thầy và trò, khâu rà soát bình chọn… Tất cả được ghi ngắn gọn theo trình tự thực tiễn sẽ diễn ra trong giờ lên lớp. Giáo án được thầy cô giáo biên soạn trong công đoạn sẵn sàng lên lớp và quyết định phần to sự thành công của bài học. Lập mưu hoạch bài học là công tác của thầy cô giáo trước lúc lên lớp, là xây dựng 1 bản kế hoạch cụ thể cho mọi giờ lên lớp. Kết quả của công tác này còn được gọi là kế hoạch bài học hay bài soạn. Thiết kế nội dung phương pháp dạy học và giáo dực là khâu quan trọng của công đoạn sư phạm.
So với công cụ dạy học cũ chỉ có bảng đen, phấn trắng và sách giáo khoa… thì việc thiết kế nội dung bài giảng trên máy vi tính với sự phân phối của hệ thống dạy học đa công cụ (Multimedia) là 1 bước ngoặt to. Bài giảng điện tử sẽ phân phối cho GV, mang đến cho HS phổ biến nhiều thông tin hơn, lôi cuốn hơn qua các kênh thông tin nhiều chủng loại và phong phú: nội dung văn bản, âm thanh, hình ảnh tĩnh, động. Các đoạn video clip chân thật. Đặc thù ở 1 số nội dung tri thức người ta còn có thể xây dựng các mẫu hình mô phỏng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng để minh hoạ hoặc chứng minh định luật, đã biến công đoạn HS nhận thức các tri thức trừu tượng thành công đoạn tự HS lĩnh hội tri thức mới 1 cách háo hức, hăng hái. Công tác này cũng giúp GV giảng bài lôi cuốn và HS tiếp nhận tri thức đỡ trừu tượng hơn.
Giáo án điện tử là 1 vẻ ngoài tổ chức bài lên lớp nhưng mà ở đấy toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học đều đã được chương trình hoá, do GV điều khiển phê chuẩn môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cần xem xét giáo án điện tử chẳng phải thuần tuý là các tri thức nhưng mà HS ghi vào vở nhưng mà đấy là toàn thể hoạt động dạy và học hăng hái – tất cả các cảnh huống sẽ xảy ra trong công đoạn truyền đạt và tiếp nhận tri thức của HS. Giáo án điện tử nhập vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp để biến công đoạn dạy học tiêu cực thành công đoạn dạy học hăng hái.
Các đơn vị của bài học đều phải được multimedia hoá. Multimedia được hiểu là đa công cụ, đa môi trường, đa truyền thông. Trong môi trường multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (Text), đồ hoạ (Graphics), hoạt ảnh (Animation), ảnh chụp (Image), âm thanh (Audio) và phim video (video clip)…
Giáo án điện tử là bản thiết kế chi tiết toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học của GV và HS trong giờ lên lớp. Toàn bộ hoạt động dạy học đấy đã được multimedia hóa 1 cách cụ thể, có cấu trúc chặt chẽ và lôgic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là 1 thành phầm của hoạt động thiết kế bài dạy được trình bày bằng vật chất trước lúc bài dạy học được thực hiện. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của 1 bài giảng điện tử. Xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là 2 cách gọi không giống nhau cho 1 hoạt động chi tiết để có được 1 bài giảng điện tử trong công đoạn dạy học hăng hái.
2. Quy trình xây dựng giáo án điện tử
a. Mày mò nội dung bài dạy, xác định tiêu chí bài học
Đây là công tác cần làm trước hết của thầy cô giáo. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài qua sách giáo khoa, sách thầy cô giáo và các tài liệu khác có liên can.
Trong dạy học hướng tập trưng vào HS, tiêu chí phải chỉ rõ học xong bài, HS đạt được cái gì. Chỉ tiêu ở đây là tiêu chí học tập, chứ chẳng phải là tiêu chí giảng dạy, nghĩa là chỉ ra thành phầm nhưng mà HS có được sau bài học. Đọc kĩ sách giáo khoa, liên kết với các tài liệu tham khảo để mày mò nội dung của 1 mục trong bài và cái đích cần đạt đến của 1 mục. Trên cơ sở đấy xác định đích cần đạt đến của cả bài về tri thức, kỹ năng, thái độ. Ấy chính là tiêu chí của bài.
Chọn lọc tri thức căn bản, xác định đúng những nội dung trọng điểm. Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ biến được tuyển lựa từ khối lượng kiến thức khổng lồ của khoa học bộ môn, được xếp đặt 1 cách lôgíc, khoa học, bảo đảm tính sư phạm và thực tế cao. Do đó, cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn.
Đây là điều buộc phải thế tất vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chú yếu; chương trình là pháp lệnh cần phải làm theo. Căn cứ vào đấy để chọn lọc tri thức căn bản là nhằm bảo đảm tính hợp nhất của nội dung dạy học trong toàn quốc. Mặt khác, các tri thức trong sách giáo khoa đã được quy định để dạy cho HS. chọn tri thức căn bản là chọn tri thức ở trong sách giáo khoa chứ chẳng phải là ở tài liệu nào khác. Tuy nhiên, để xác định được đúng tri thức căn bản mỗi bài thì cần phải đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở mang hiểu biết về vấn đề cần giảng dạy và tạo bản lĩnh chọn đúng tri thức căn bản. Việc tuyển lựa tri thức căn bản của bài dạy học có thể gắn với việc xếp đặt lại cấu trúc của bài để làm nổi trội các mối liên hệ giữa các hợp phần tri thức của bài, từ đấy rõ thêm các trọng điểm, trọng tâm của bài. Việc làm này đích thực nhu yếu, ngoài ra chẳng phải ờ bài nào cũng có thể thực hiện được đơn giản. Cũng cần để mắt tới việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên lý ko làm chuyển đổi ý thức căn bản của bài nhưng mà các tác giả sách giáo khoa đã dày công xây dựng.
Soạn giáo án (kế hoạch dạy học) theo hướng dạy học hăng hái, sẵn sàng các công cụ phân phối khác.
b. Viết kịch bản sư phạm cho việc thiết kế giáo án trên máy
Khi tiến hành bước này người thầy cô giáo phải tưởng tượng được toàn thể nội dung cũng như những hoạt động sư phạm trên lớp của toàn thể tiết dạy học và xác định được phần nào, nội dung nào của bài cần sự phân phối của máy vi tính để tiết học đấy đạt hiệu quả cao.
Tên các (Hoạt động) – Thời gian – Nội dung – Hình ảnh trình bày trên máy vi tính.
c. Multimedia hoá tri thức
Đây là bước rất quan trọng cho việc thiết kế giáo án điện tử, là nét đặc thù căn bản của giáo án điện tử để phân biệt với các loại giáo án truyền thống, hoặc các loại giáo án có sự phân phối 1 phần của máy vi tính. Việc Multimedia hóa tri thức được tiến hành qua các bước:
Dữ liệu hoá thông tin tri thức
Phân loại tri thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ, ảnh tĩnh, phim, âm thanh…
Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dựng trong bài học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ 1 ứng dụng dạy học nào đấy hoặc từ Internet… hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh quét, ảnh chụp, quay video, bằng các ứng dụng đồ họa chuyên dựng như Macromedia ..
Chọn lựa các ứng dụng dạy học có sẵn cần dùng tới trong bài học để đặt kết hợp.
Xử lí các tư liệu nhận được để tăng lên chất lượng về hình ảnh, âm thanh.
Khi sử dựng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải bảo đảm các đề xuất về mặt nội dung, cách thức, thẩm mĩ và ý nghĩ sư phạm.
d. Xây dựng các thư viện tư liệu
Sau lúc có được đầy đủ tư liệu cần phục vụ bài giảng điện tử, phải thực hiện xếp đặt tổ chức lại thành thư viện tư liệu, nghĩa là tạo được cây folder có lí. Cây folder có lí sẽ tạo điều kiện kiếm tìm thông tin mau chóng và giữ được các kết hợp trong bài giảng tới các tập tin âm thanh, video clip lúc sao chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác.
e. Thể hiện kịch bản trên máy vi tính
– Xử lí chuyển các nội dung trên thành giáo án điện tử trên máy vi tính.
– Dựa trên 1 số ứng dụng dụng cụ tiện ích (LectureMaker, Microsoft Power Point, Violet…) để trình bày kịch bản đấy.
– Nếu thầy cô giáo còn giảm thiểu về trình độ tin học thì ở bước này cần có thêm sự phân phối của người có trình độ tin học, để bàn luận luận bàn hợp nhất việc trình bày kịch bản trên máy tính, vừa làm vừa phải điều chỉnh kịch bản cho thích hợp với tiếng nói nhưng mà máy tính có thể trình bày được vì việc trình bày kịch bản trên máy tính còn lệ thuộc về mặt thời kì, về công nghệ và trình độ của người trình bày, vì đây là công cụ phân phối nên việc thiết kế trên máy phải bảo đảm các đề xuất công cụ dạy học yêu cầu: tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mĩ.
– Chọn lọc tiếng nói hoặc các ứng dụng biểu diễn để xây dựng tiến trình dạy học phê chuẩn các hoạt động chi tiết.
Sau lúc đã có các thư viện tư liệu, GV cần chọn lọc tiếng nói hoăc các phầm mềm trinh diễn thông dựng để thực hiện dựng giáo án điện tử.
Trước hết cần chia công đoạn dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt động nhận thức chi tiết. Dựa vào các hoạt động đấy để định ra các slide (trong Microsoft office PowerPoint) hoặc các trang trong Frontpage. Sau đấy xây dựng nội dung cho các trang (hoặc các slide). Tùy theo nội dung chi tiết nhưng mà thông tin trên moi trang slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip…
Văn bản cần thể hiện ngắn gọn cô đọng, chú yếu là các tiêu đề và dàn ý căn bản. Nên dùng 1 loại Font chữ tầm thường, dễ dãi, màu chữ được dùng hợp nhất tuy theo mục tiêu sử dựng không giống nhau của văn bản như câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, hoặc giải thích, giảng giải, ghi nhớ, câu giải đáp… Khi thể hiện nên sử dựng lược đồ khối để HS thấy ngay được cấu trúc lôgic của những nội dung cần thể hiện.
Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền (Background) hợp nhất cho các trang slide, giảm thiểu sử dựng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau.
Không nên lạm dựng các hiệu ứng biểu diễn theo kiểu “bay nhảy” lôi cuốn sự tò mò ko nhu yếu của HS, phân tán để mắt tới trong học tập, nhưng mà cần để mắt tới làm nổi trội các nội dung trọng điểm, khai thác triệt để các ý nghĩ tiềm tàng bên trong các nhân vật biểu diễn phê chuẩn việc nêu vấn đề, chỉ dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm tăng trưởng tư duy của HS. cái quan trọng là nhân vật biểu diễn ko chỉ để thầy tương tác với máy tính nhưng mà chính là phân phối 1 cách hiệu quả sự tương tác thầy- trò, trò – trò.
Cuối cùng là tiến hành các kết hợp (Hyperlink) có lí, lôgic lên các nhân vật trong bài giảng. Đây chính là điểm mạnh nổi trội có được trong bài giảng điện tử nên cần khai thác tối đa bản lĩnh kết hợp. Nhờ sự kết hợp này nhưng mà bài giảng được diễn ra 1 cách cởi mở, thông tin được truy xuất kịp thời, HS dễ tiếp nhận.
Thể nghiệm, tu sửa và hoàn thiện
– Sau lúc thiết kế xong, phải thực hiện chạy thử chương trình, rà soát các sơ sót, đặc thù là các kết hợp để thực hiện tu sửa và hoàn thiện.
– Chạy thử (chạy thử từng phần và toàn thể các slide để điều chỉnh những sơ sót về kĩ thuật trên máy tính).
– Chỉnh sửa và hoàn thiện giáo án điện tử.
– Dạy thử (Dạy thử toàn thể bài trước GV hoặc cả GV và HS) để có thể điều chỉnh nội dung cũng như vẻ ngoài trình bày trước lúc dạy chính thức.
– Nếu là giáo án điện tử viết cho người khác sử dựng thì cần thêm bước thứ 5.
Viết bản chỉ dẫn
– Kĩ thuật sử dựng (cách mở đĩa, mở bài giảng,..).
– Ý đồ sư phạm của từng phần bài giảng, từng slide được thiết kế trên máy vi tính.
– Phương pháp giảng dạy, việc liên kết với các cách thức khác, công cụ khác (nếu có).
– Hoạt động của GV và HS, sự phổi hợp giữa GV và HS.
– Tương tác giữa GV, HS và máy tính…
Sử dựng ứng dụng thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học online trên mạng internet.
1 trong những khâu quan trọng nhất của dạy học online là việc xây dựng nội dung dành cho từng khoá học chi tiết. Nội dung này được xây dựng dựa trên nền móng của web và Internet. Hiện nay nội dung các bài giảng điện tử của hệ thống e-learning chủ quản được xây dựng trên các ứng dụng như: ProntPage, Script, exe, Lectora…
Lectora là 1 ứng dụng CAS có bản lĩnh tương tác với HS và làm theo các chuẩn của E-Learning. Nó chứa đựng toàn thể kế hoạch cũng như kịch bản dạy học của GV nhằm hỗ trợ tri thức cho HS. Phần mềm Lectora Enterprise Edition hỗ trợ 1 nhóm hoàn chỉnh các dụng cụ nhu yếu để đáp ứng 1 thành phầm mang tính nhiều năm kinh nghiệm về xuất bản web nhưng mà tốn ít thời kì nhất. Nó tạo điều kiện cho những GV chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế nội dung cho bài giảng điện tử.
Phần mềm Lectora ô sin xây dựng và xuất bản các chủ đề 1 cách đơn giản. Ta có thể tập trưng vào việc tổ chức nội dung và thông minh nội dung dạy học. Trong lúc ứng dụng sẽ tự động hoàn thiện những phần soạn chương trình phực tạp và những nhiệm vụ xuất bản cho những tính năng và sự định hướng cho 1 chủ đề nào đấy.
Sử dựng Lectora để xây dựng các chủ đề sẽ làm tăng hiệu quả công tác, tiết kiệm thời kì và kinh phí. Đây là 1 gói ứng dụng cho phép 1 tư nhân hoặc 1 nhóm có thể đơn giản tạo ra các nội dung ảnh hưởng lẫn nhau. Phần mềm Lectora có nhiều điểm đồng nhất với Power Point là tiện ích nhưng mà đông đảo GV THPT thường dùng để soạn giáo án điện tử, ngoài ra Lectora có điểm mạnh là có thể xuất bản như 1 website hoặc là xuất bản thành 1 chương trình ứng dựng độc lập từ CD-ROM. Lectora phân phối 1 cách phổ thông những kiểu công cụ thông dựng như: Văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình. Ngoài ra, có cả những công nghệ được ưa thích trên internet như là shock wave, Flash, HTMI… với Lectora, chúng ta sẽ tạo ra những nút bấm 3 hiện trạng bằng các ảnh hoạt hình nhưng mà ko cần có tri thức về lập trình, rà soát được toàn thể công đoạn hoặc chỉ 1 thời khắc chi tiết…
Bài học trong Lectora được xây dựng dựa trên những quy ước sau đây:
– 1 bài học được hiểu như 1 chương của cuốn sách (chapter).
– 1 bài học là tập trung 1 hoặc nhiều phần (sections).
– 1 phần bao gồm tập trung 1 hay nhiều trang (page).
– Trong 1 trang có các chủ đề học tập. 1 hoạt động học tập có thể là sự liên kết của nhiều hành động, động tác như: Đọc 1 đoạn văn bản, nhìn và quan sát 1 hình ảnh, lắng tai 1 âm thanh, quan sát 1 hoạt hình, thí nghiệm, thực hành ảo, mô phỏng hay 1 vài chỉ dẫn để tiến hành các bài tập… nhằm giúp HS lĩnh hội được tri thức, kỹ năng trong hành động.
Xây dựng nội dung cho khoá học online bằng ứng dụng Lectora:
– Mẫu hình cấu trúc nội dung khoa học: Trong môi trường E-Learning, 1 khóa học được chia thành nhiều module không giống nhau. Trong mỗi module, có thể tách thành các module bé hơn (có thể tưởng tượng 1 cấu trúc cây các module). Như vậy, 1 khóa học như là 1 module chính, chứa các module con bé hơn. Việc phân phân thành các module tương tự sẽ mang đến nhiều thuận tiện: người kiến tạo nội dung có thể đưa ra 1 cấu trúc cây nội dung hoàn chỉnh, sau đấy có thể phân chia cho những người tham dự viết nội dung, mỗi người đảm trách 1 hoặc 1 số module nào đấy. Bản thân mỗi module sẽ được đóng gói lại theo các chuẩn định trước, mỗi gói này lúc đóng gói sẽ có kích tấc không giống nhau. Việc tách bé nội dung sẽ cho phép GV đơn giản tải từng phần lên mạng nối ghép lại với nhau. Đối với những gói quá to, bản lĩnh bị ngắt mạng hoặc lỗi truyền tải sẽ rất cao.
Cấu trúc 1 trang tài liệu trong Lectora
-. 1 trang tài liệu trong Lectora được cấu thành bởi 1 hay nhiều nhân vật nằm xen kẽ lẫn nhau. 1 nhân vật sẽ xác định 1 nội dung chi tiết. Chẳng hạn có image để hiển thị 1 hình ảnh, có Audio để kết nối với file âm thanh, có Textbox cho phép nhâp nội dung văn bản…
Sau đây là danh sách các nhân vật của Lectora:

AddAction

Thiết lập các hoat động xảy ra trong công đoạn học.

Add Equation

Đánh các kí hiệu và công thức toán học vào tài liệu.

Add Menu

Thiết kế thực đơn các hoạt động của bài học.

Add External HTML

Đưa 1 trang web vào nội dung học tập, qua đấy HS có thể duyệt nội dung của website ngay trong bài học nhưng mà ko cần mở của số
khác.

Add Document

Đính kèm 1 file văn bản vào nội dung học tập.

Add Table of contents

Thiết lập bảng mục lục của tài liệu

Add Button

Thiết lập biểu trưng Điều khiển của tài liệu.

AddAudio

Thiết lập kết nối với file âm thanh trong bài học.

Add IPIX

Thiết lập kết nối với file hhih ảnh IP IX trong taằi học.

AddVideo

Thiết lập kết nối với file video trong bài học.

AddAnimation

Thiết lập kết nối với file hình ảnh động trong bài học.

Add image

Đưa 1 hình ảnh vào tài liệu.

Add Text block

Nhập văn bản thuần tuý vào nội dung tài liệu.

Add Question

Thiết lập câu hỏi và đáp án trong bài học.

Add Page

Thêm 1 trang mới của tài liệu.

Add Section

Thêm 1 mục mới của tài liệu.

Add Chapter

Thêm 1 chương mới của tài liệu.

Mode/preview

Xem bài học lúc kết nối các hiệu ứng.

Publish /Publish lớn CDROM

Xuất bản bài học ra đĩa CD.

Publish /Publish lớn HTML

Xuất bản bài học lên web dưới dạng file HTML.

Publish /Publish lớn SCORM

Xuất bài bài học ra file SCORM.

Thông thường 1 bài học trong Lectora có cấu trúc như sau:
– Phần đầu xác định những tiêu chí cần đạt được, các đề xuất đối với HS, các tri thức cần biết để có thể xong xuôi khóa học.
– Phần thứ 2 chứa đựng nội dung bài học, trong đấy có thể gồm các hoạt động như: các hoạt động đọc- giải đáp câu hỏi, xem các đoạn video mô phỏng, khắc phục các bài tập, các thao tác tiến hành… Mỗi hoạt động này sẽ được trình bày bởi 1 nhân vật có tính năng tương đương.
– Phần cuối là các bài tập dưới dạng các câu hỏi trắc nghiệm và nhiệm vụ ủy quyền HS tại nhà.
Chú ý rằng trong công đoạn dạy học online, GV ko trực tiếp gặp gỡ HS, vì thế chẳng thể tiến hành trực tiếp các thao tác giảng dạy thông thường như trên lớp. Do đấy, việc xây dựng nội dung giảng dạy online đề xuất GV phải xây dựng các kịch bản, các thao tác ngắn gọn, dễ hiểu, cuốn hút người học vào nội dung học tập 1 cách tự giác, hăng hái.
Để xuất bản nội dung khóa học, ngày nay Lectora sử dựng 3 loại định dạng file chính như sau:

Publish / Publish lớn CDROM

Các gói nội dung trong Lectora được lưu Lại trong folder CD ở folder hiện giờ với file chạy LectoraViewer.exe và toàn thể các file chương trình nguồn của bài học trong Lectora; Sau đấy copy toàn thể folder CD ra đĩa CDROM để luận bàn thông tin với GV và HS lúc chẳng thể kết nối internet.

Publish / Publish lớn SCORM

Gói nội dung được lưu lại dưới dạng 1 file nén zip, cho phép gói tất cả các trang được tạo ra cộng với 1 file IMSmanifest.xml để sử dụng với các hệ LMS tương hợp với SCORM. Tài liệu này hỗ trợ cho LMS những hướng dẫn hiển thị và cấu trúc gói nội dung.

Publish / Publish lớn HTML

Tạo ra 1 folder HTML ở folder hiện giờ chứa các trang HTML, hình ảnh và các style sheet nhu yếu để xuất bản gói nội dung lên web.

Các file Lectora sẽ được lưu với tên tương ứng ở hộp thoại New title name và lưu vào folder nhưng mà ta chọn lọc lúc khởi động ứng dụng Lectora ở hộp thoại choose thư mục. Các nội dung được tạo ra trong Lectora có thể được xuất bản thành các gói web để đưa lên web server, cũng như gói SCORM để phân phát đến các hệ LMS tương hợp với SCORM, 1 IMS Content Package, hoặc như là 1 trang web đơn để tiện in ấn.
1 số điểm cần xem xét lúc thiết kế giáo án điện tử như sau:
Về tiêu chí bài dạy, thời kì và các bước lên lớp vẫn phải bảo đảm nguyên lý và cách thức dạy học bộ môn. Giáo án điện tử chẳng thể thay thế giáo án truyền thống, chẳng thể thay thế toàn thể vai trò của GV nhưng mà chỉ là 1 loại hình thiết bị dạy học để góp phần tăng lên chất lượng dạy học.
Bảo đảm mọi đề xuất tiến hành nội dung và cách thức dạy học bộ môn thích hợp với tâm lí thế hệ, trình độ nhận thức của HS. Nội dung tuyển lựa tiếng nói trong trắng, dễ hiểu.
Có tính mở, phát huy tối đa tính hăng hái, thông minh của HS. Tạo sự tương tác giữa HS với máy tính.
Cần cân nhắc lúc sử dựng hệ thống dạy học đa công cụ cho các nội dung thích hợp, với thời kì rất giảm thiểu trong 1 tiết học (ko sử dựng trong toàn thể tiết học).
Các tri thức được đưa vào trình chiếu dưới dạng các trang slide, các đoạn Video, Audio phải được tuyển lựa chuẩn xác, dễ hiểu trình bày được lôgic cấu trúc của bài dạy bao gồm cả kênh hình, kênh chữ, kênh tiếng tạo điều kiện hăng hái hóa công đoạn nhận thức, công đoạn tư duy của HS tránh lạm dựng trình chiếu 1 chiều.
Mời độc giả cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục huấn luyện trong mục biểu mẫu nhé.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT1
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT2
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT3

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #module #THPT16

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16

hoatieu.vn xin gửi đến thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT16 để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch BDTX module THPT16 là bài thu hoạch về giấy tờ dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT. Mời thầy cô cùng tham khảo cụ thể và tải về bài thu hoạch tại đây.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT (41 module)
Bài thu hoạch BDTX module THPT16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ………

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc———————

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module THPT16: Giấy má dạy học phục vụ đổi mới PPDH học cấp THPT
5 học: …………..
Họ và tên: ……………………….
Đơn vị:……………………………..
Giấy má dạy học là tập trung các kế hoạch, số sách, tài liệu chuyên môn của môn học được sẵn sàng trước theo sự chỉ huy của nhà trường và sự cắt cử của tổ chuyên môn giúp GV thực thi dạy học trong công đoạn công việc để đạt được tiêu chí chất lượng dạy học đã đề ra.
Việc đổi mới cách thức dạy học gắn liền với việc xây dựng và quản lí, bảo quản giấy tờ dạy các môn học ở các trường THPT đã được khai triển từ cách đây hàng chục 5. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chỉ dẫn xây dựng, quản lí sử dụng giấy tờ dạy học hầu như chưa có bước đổi mới nào đáng kể; thậm chí, 1 số GV và cán bộ quản lí chưa thông suốt và chưa xây dựng được những mục tiêu của 1 bài học theo ý thức đổi mới. Trước đề xuất đổi mới giáo dục 1 cách cơ bản và toàn diện buộc mọi GV phải tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Chúng ta sẽ nghiên cứu đổi mới dần dần từng giai đoạn 1 của việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học (nắm bắt tiêu chí bài học; xây dựng kế hoạch bài học theo ý thức mới; tổ chức cho HS hoạt động học tập…); tiến đến đổi mới hoàn toàn việc dạy và học các môn học ở cấp trưng học.
Lược đồ hệ thống giấy tờ dạy học của môn học gồm:
1. Giấy má tổ chuyên môn (CM) là tập trung các văn bản chỉ huy chuyên môn của các ngành, những tài liệu chuyên môn về chương trình, khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kĩnăng, tiêu chí của môn học; các kế hoạch cắt cử dạy học, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, đăng kí thi đua, đăng kí học tập tăng lên chuyên môn nghiệp vụ… Giấy má này do tổ trưởng chuyên môn chủ trì xây dựng.
2. Thông tin chung là các tham số cho biết sơ bộ tên môn học, cấp học, lớp học, khuôn khổ chuyên môn, GV dạy… Thông tin này do GV bộ môn xây dựng.
3. Số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân (BDCMCN) là những thu thập biên chép và tự bồi dưỡng của GV trong các đợt huấn luyện chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn, hoặc tự bồi dưỡng về các lĩnh vực:
– Nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa.
– Các cách thức dạy học, kĩ thuật dạy học hăng hái bộ môn.
– Các kỹ năng dạy tích hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục.
– Các kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học bộ môn.
– Các kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
– Tự làm thiết bị dạy học.
– Kinh nghiệm dạy học phân hóa HS yếu kém.
– Kinh nghiệm bồi dưỡng HS giỏi.
– Kế hoạch tự bồi dưỡng thường xuyên.
– Những kinh nghiệm về sư phạm, giáo dục khác.
Số này do GV biên chép trong công đoạn công việc nhiều 5.
4. Số dự giờ là văn bản ghi các bình chọn của GV về tiết dạy của đồng nghiệp theo các mục tiêu tiết dạy nhằm rút kinh nghiệm học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ trong công đoạn công việc. Số dự giờ do GV xây dựng và biên chép lúc dự giờ thăm lớp đồng nghiệp.
5. Số điểm tư nhân là văn bản biên chép tóm lược những đặc điểm của HS về bộ môn và các bình chọn rà soát thường xuyên và định kì trong công đoạn HS theo học môn học.Số điểm tư nhân do GV bộ môn xây dựng và biên chép thường xuyên.
6. Số mượn thiết bị dạy học là số biên chép mượn công cụ, thiết bị dạy học của GV với nhà trường thường xuyên trong công đoạn công việc. Số này do nhà trường xây dựng và quản lí.
7. Số báo giảng ghi kế hoạch lịch dạy học của GV bộ môn theo kế hoạch tuần, học kì và cả 5 thích hợp với thời khóa biểu của nhà trường. Nội dung ghi cụ thể cho từng tiết dạy: tên bài dạy, lớp dạy, thiết bị dạy học. Người đảm trách thiết bị dạy học của trường sẽ căn cứ vào số này để phân phối cho GV sẵn sàng thiết bị dạy học. Số này do GV bộ môn xây dựng trước chí ít 1 tuần trước tiến hành.
8. Kế hoạch bài dạy (giáo án)
Giáo án là bản kế hoạch sẵn sàng trước của GV, ước tính những hoạt động học tập của HS trong tiết học, đề nghị những cảnh huống có thể gặp phải và dự định cách khắc phục để giúp HS tiến hành được tiêu chí bài dạy. Đây là tài liệu quan trọng nhất, buộc phải đối với mọi GV lúc dạy học. Nội dung của giáo án trình bày cách thức dạy học của GV, hoạt động của HS, tri thức căn bản.
Kiểu bài dạy. Tùy từng đặc thù môn học, có những kiểu bài dạy và cấu trúc giáo án không giống nhau. Thông thường có các kiểu bài dạy sau đây:
– Bài dạy lí thuyết, xây dựng các tri thức, kỹ năng mới.
– Bài dạy bài tập, áp dụng các tri thức lí thuyết vào việc khắc phục các vấn đề thực tế hoặc giải các bài tập.
– Bài dạy ôn tập, hệ thống khắc sâu lại các tri thức đã học.
– Bài dạy thực hành, áp dụng và đoàn luyện các kỹ năng thực hành, củng cố các tri thức đã học.
– Tiết rà soát là dạng đặc thù của bài dạy đuợc soạn theo cấu trúc riêng.
Ngoài ra, tùy theo từng môn có các kiểu bài dạy ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn, thăm quan dã ngoại…
9. 1 số để mắt tới lúc đồ mưu hoạch bài dạy: Giáo viên sẽ đồ mưu hoạch không giống nhau.
– Đối với các tiết tổ chức các hoạt động học tập trên lớp.
– Đối với các tiết thực hành.
– Đối với các tiết rà soát.
– Đối với các tiết tổ chức dạy học ngoài thực địa, trong phòng học bộ môn.
– Tổ chức thăm quan dã ngoại.
Quy trình xây dựng giấy tờ dạy học gồm các bước:
Bước 1: Tổ chuyên môn trao đổi luận bàn về các văn bản chỉ huy của các ngành, xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn bao gồm: chương trình, sách giáo khoa, khung cung cấp chương trình, chuẩn tri thức kỹ năng của chương trình, khung ma trận đề rà soát, những vấn đề về sử dụng công cụ, thiết bị dạy học, những vấn đề về cách thức dạy học, các kĩ thuật dạy học hăng hái…
Bước 2: Hoàn thiện các thông tin chung.
Bước 3: Mày mò và cập nhật số bồi dưỡng chuyên môn tư nhân: Khung cung cấp chương trình, các chuẩn tri thức kỹ năng, sử dụng thiết bị dạy học, sử dụng kĩ thuật dạy học hăng hái…
Bước 4: Mày mò và cập nhật số dự giờ, số mượn thiết bị dạy học, xây dựng số điểm tư nhân.
Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài dạy. Dựa vào thời khóa biểu để xây dựng số báo giảng.
Quy trình ra đề kiềm tra theo chuẩn tri thức, kỹ năng trong giấy tờ dạy học:
Do có những nội dung trong chuẩn tri thức, kỹ năng còn được miêu tả 1 cách chung chung, nói chung nên để bình chọn được kết quả học tập của HS 1 cách khách quan, công bình và khoa học thì việc soạn câu hỏi theo chuẩn tri thức, kỹ năng có thể tiến hành theo thứ tự sau:
– Bước 1: Phân loại các chuẩn tri thức, kỹ năng theo cấp độ nhận thức (Nhận biết, thông hiểu, áp dụng).
– Bước 2: Xác định các thao tác, hoạt động tương ứng của HS theo chuẩn tri thức, kỹ năng cần rà soát, bình chọn.
– Bước 3: Xác định 1 số dạng toán căn bản và những sai trái thường gặp của HS lúc làm bài rà soát.
– Bước 4: Xây dựng bảng trọng số của bộ câu hỏi.
– Bước 5: Biên soạn, thí điểm, phân tách, hoàn thiện bộ câu hỏi.
Việc biên soạn đề rà soát cần tiến hành theo thứ tự sau:
Bước 1. Xác định mục tiêu của đề rà soát.
Bước 2. Xác định vẻ ngoài đề rà soát.
– Bước 3. Thiết lập ma trận đề rà soát.
Bước Tổ hợp câu hỏi theo ma trận đề.
Bước 5. Xây dựng chỉ dẫn chấm (đáp án) và thang điểm.
Bước 6. Xem xét lại việc biên soạn đề rà soát.
Ma trận đề là 1 bảng có 2 chiều, 1 chiều là nội dung hay mạch tri thức, kỹ năng chính cần bình chọn, 1 chiều là các ngành độ nhận thức của HS theo các ngành độ: nhận diện, thông hiểu và áp dụng. Trong mỗi ô là chuẩn tri thức kỹ năng chương trình cần bình chọn, tỷ lệ % số điểm, số lượng câu hỏi và tổng số điểm của các câu hỏi. Số lượng câu hỏi của từng ô lệ thuộc vào chừng độ quan trọng của mỗi chuẩn cần bình chọn, lượng thời kì làm bài rà soát và trọng số điểm quy định cho từng mạch tri thức, từng cấp độ nhận thức.
Mày mò việc sử dụng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.
Sử dụng:
Giáo án được GV xây dựng, cập nhật thường xuyên và sử dụng trong công đoạn dạy, được nhà trường rà soát thường xuyên theo quy định.
Số báo giảng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
Số mượn thiết bị dạy học cũng được cập nhật trước chí ít 1 tuần lúc dạy, GV và nhân viên thiết bị dạy học căn cứ để sẵn sàng các điều kiện bài dạy.
Số dự giờ được GV sử dụng và cập nhật thường xuyên theo quy định.
Số bồi dưõng chuyên môn được GV biên chép và cập nhật thường xuyên.
Tất cá các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được nhà trường rà soát thường xuyên và đột xuất.
Bảo quản:
GV có nghĩa vụ cập nhật và bảo quản giáo án, số báo giảng, số dự giờ, số bồi dưỡng chuyên môn.
Tổ trưởng chuyên môn bảo quản kế hoạch của tổ chuyên môn
GV và nhân viên thiết bị dạy học cập nhật và bảo quản số thiết bị dạy học
Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV và nhà trường bảo quản theo quy định.
Bổ sung:
Tất cả các số sách, kế hoạch trong giấy tờ dạy học được GV cập nhật bổ sung theo quy định.
Mày mò các năng lực nhu yếu ở người thầy cô giáo trưng học cơ sở trong xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học.
Trước đề xuất xây dựng và tăng trưởng giấy tờ dạy học ở trường THPT, yêu cầu người GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức dạy học:
GV phải biết kiếm tìm, nghiên cứu thông tin mới, tài liệu tham khảo, các cảnh huống phần mềm trong thực tế để đoàn luyện cho HS. Để bắt nhịp được với đổi mới của giáo dục phổ biến và sự tăng trưởng của khoa học công nghệ, người GV phải kiếm tìm tài liệu tham khảo, nghiên cứu thông tin. Trong điều kiện thông tin bùng nổ, tài liệu nghiên cứu nhiều chủng loại, phong phú người GV phải có năng lực kiếm tìm chọn lọc tài liệu, nghiên cứu thu nạp, xử lí thông tin, mới mang đến kết quả. Mặt khác, để đoàn luyện HS phần mềm tri thức vào thực tế, GV phải biết kiếm tìm các cảnh huống phần mềm.
GV phải được bồi dưỡng tăng lên năng lực tổ chức thực hành, ngoại khóa, sử dụng các thiết bị dạy học. GV phải biết xếp đặt và xác định rõ chừng độ cho các hoạt động thực hành, các hoạt động ngoại khóa, xác định những đề xuất chi tiết và nội dung hoạt động tương ứng cùng các chỉ dẫn nhu yếu về tổ chức các hoạt động này. GV cũng phải có năng lực sử dụng các công cụ dạy học nhất là công cụ công nghệ thông tin để phát huy vai trò quan trọng của nó trong công đoạn dạy học.
GV phải có kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp đề xuất đổi mới cách thức dạy học. Để tiến hành được cách thức dạy học hăng hái hóa hoạt động học tập của HS, GV nhu yếu những kỹ năng, kĩ thuật dạy học thích hợp. Ấy là những kỹ năng dạy học mới đã được giới thiệu nhưng mà chưa được tầm thường trong tất cả GV như: kỹ năng dạy học cộng tác theo nhóm bé, kỹ năng sử dụng công cụ dạy học như 1 nhân vật giáo dục, kỹ năng sử dụng các công cụ nghe nhìn chuyên dụng cho cho dạy học, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, kỹ năng làm các bộ dụng cụ bình chọn kết quả học tập… Những kỹ năng dạy học GV đã có nhưng mà nay cần phải đổi mới như: kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học, kỹ năng đồ mưu hoạch bài học, kĩ thuật đặt câu hỏi, kỹ năng chỉ dẫn thực hành, kỹ năng đổi mới rà soát bình chọn kết quả học tập của HS, kỹ năng thiết lập các chiến lược dạy học…
(Nêu 1 số nguyên cớ chủ quản dẫn tới những giảm thiểu trong xây dựng, bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học ở trường THPT ngày nay)
Nguyên nhân của hiện trạng này có thể có nhiều, trong đấy có 1 số nguyên cớ chủ quản sau;
– Nhận thức của 1 số GV còn giảm thiểu, chưa thấy sự cần phải có phải đổi mới cách thức dạy học và rà soát bình chọn, đặc thù là việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học. Nhiều GV cho rằng cứ dạy tốt theo cách thức cũ cũng có thể chuyển tải được hết nội dung tri thức của sách giáo khoa cho HS và bảo đảm đuợc 1 tỷ lệ HS đuợc lên lớp, như thế là việc dạy học đã có hiệu quả tốt. Họ cho rằng giấy tờ dạy học không phù hợp gì tới công đoạn dạy học, việc lên lớp ko có giấy tờ dạy học vẫn xảy ra ở các trường học.
– 1 số cán bộ quản lí và GV quan niệm việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học được thực hiện xưa nay là việc sẵn sàng, sử dụng những thiết bị dạy học đương đại như máy chiếu bản trong (overhead), máy vi tính, projector, thí nghiệm ảo, Microsoft Power Point… trong giờ học. Họ đích thực chưa thấy được sự dị biệt cơ bản giữa tiêu chí của bài học nhưng mà chúng ta chờ đợi ngày nay và tiêu chí của bài dạy trước đây.
– 1 số GV có mong muốn hăng hái tìm cách đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học 1 cách đích thực, nhưng mà vì chưa nắm được tiêu chí và đặc điểm của sự đổi mới nên đã đi theo những hướng chưa thật chuẩn xác.
– 1 gian khổ rất to tác động tới việc xây dựng, quản lí giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới dạy học ở cấp THPT là khối lượng tri thức của chương trình còn quá tải, khi mà đấy thời lượng dành cho mỗi môn học lại quá giảm thiểu. Thời gian của mỗi tiết học ở THPT chỉ có 45 phút nên gian khổ cho việc tổ chức dạy học theo cách thức mới.
– Vấn đề sĩ số của lớp học quá to ở nhiều trường THPT trọng tâm của các tỉnh, thị thành (mỗi lớp có thể lên tới 50, 60 HS) cũng là gian khổ cho việc xây dụng giấy tờ dạy học. Sĩ số đấy to gấp đôi, hoặc gấp 3 sĩ số của 1 lớp học ở cấp này của các nước trên toàn cầu, với những lớp đông tương tự, ngay việc quản lí thứ tự của lớp trong tiết học đã là gian khổ, nên GV rất gian khổ trong tổ chức cho HS hoạt động để chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng.
– Hiện nay trang thiết bị dạy học của các trường THPT dù rằng đã được đầu cơ trang bị nhưng mà còn rất giảm thiểu, thiếu đồng bộ. Trường lớp được xây dựng theo các quy cách cũ, ko thuận tiện cho việc bảo quản và bổ sung giấy tờ dạy học.
– Cũng cần phải nêu thêm 1 nguyên cớ tác động tuy gián tiếp nhưng mà có ảnh hưởng rất to tới công đoạn đổi mới xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học ở bậc THPT là sự đổi mới chậm chập việc bình chọn kết quả học tập của HS. Hiện nay, mục tiêu của các kì thi còn nặng về rà soát nội dung, chưa chú trọng bình chọn năng lực của người học. Cùng lúc việc bình chọn kết quả giảng dạy của GV cũng chưa thật ân cần tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học chuyên dụng cho đổi mới giáo dục. Chẳng hạn, lúc dự giờ thao giảng, nhiều người chỉ chuyên chú xem GV dạy chuẩn xác hay ko chuẩn xác, có đặt nhiều câu hỏi hay ko, có bị “cháy” giáo án hay ko?… Họ ít lúc để mắt tới phân tách xem phương pháp nhưng mà GV tổ chức cho HS hoạt động học tập trong tiết học có thích hợp hay ko? (Từ khâu sẵn sàng cho tới lúc thực thi dạy học) Hiệu quả dạy học của tiết học cao hay thấp? Vì thế GV ít chú trọng tới vấn đề xây dựng giấy tờ dạy học.
Trên đây chỉ là 1 số nguyên cớ tác động tới việc xây dựng và quản lí giấy tờ dạy học các môn học ở bậc THPT, chứng ta còn có thể nêu thêm những nguyên cớ khác tùy theo đặc trưng của tùng vùng miền, môn học chi tiết.
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG XÂY DỰNG
VÀ SỬ DỤNG HỒ SƠ DẠY HỌC
Khi công nghệ thông tin (CNTT) tham dự vào công đoạn dạy học sẽ làm môi trường dạy học chỉnh sửa. Nó có ảnh hưởng mạnh bạo đến mọi thành tố của công đoạn dạy học: tiến hành vai trò giảng dạy như 1 GV; hỗ trợ tài liệu học tập mới có tính tương tác, dễ mang, dễ cập nhật; hỗ trợ nguồn khoáng sản học tập phong phú, dễ truy cập, cung cấp và có thể khai thác cởi mở; hỗ trợ dụng cụ học tập mới có bản lĩnh cộng tác với người sử dựng để giúp người sử dựng khai thác hết bản lĩnh làm việc của họ; hỗ trợ kênh giao tiếp, truyền thông mới giữa GV và HS, giữa HS với HS, giữa HS với các nhân vật khác; hỗ trợ dụng cụ rà soát, bình chọn mới khách quan và chuẩn xác; hỗ trợ 1 hệ thống và dụng cụ quản lí dạy học mới…
Khi sử dựng các thành phầm CNTT, GV có thể khai thác các điểm mạnh về mặt kĩ thuật và tiềm năng về mặt sư phạm của CNTT để xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường THPT.
Hoạt động 1. Mày mò bản lĩnh ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học.
Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học sẽ đem lại những ảnh hưởng hăng hái như sau:
– Cung cấp nguồn thông tin đủ dùng, phong phú:
Quá trình dạy học với các cách thức, giải pháp ko có đa công cụ multimedia phân phối, luôn gặp phải gian khổ là GV và HS chỉ có số lượng tài liệu và thông tin rất giảm thiểu. Nội dung tài liệu được thể hiện trên giấy do chướng ngại về kĩ thuật in ấn, giá cả, kích tấc và trọng lượng của sách giáo khoa… nên tác giả của sách phải thể hiện cực kỳ cô đọng, chẳng thể biên soạn cuốn sách có nội dung phong phú để phục vụ nhu cầu của người đọc, ko có nhiều tài liệu tham khảo, nhiều tranh ảnh minh hoạ…
Thành phầm CNTT có thể tạo ra những tài liệu đa công cụ chất lượng cao, đơn giản lưu giữ và khai thác chúng, chất lượng tài liệu được cải thiện đáng kể. Do lưu trữ trên ổ cứng hoặc đĩa CD ROM, các tài liệu cho phép khai thác sử dựng nhiều lần nhưng mà ko làm giảm chất lượng. Nghe tài liệu âm thanh vài chục lần thậm chí vài trăm lần với máy tính song chất lượng chẳng hề chỉnh sửa. Các ổ cứng cũng như CD ROM có thể lưu giữ các tài liệu âm thanh chẳng hề gian khổ và tốn kém.
Với 1 chiếc máy tính tư nhân với ổ cứng dung lượng to ngày nay có thể chứa đựng 1 lượng thông tin đồ sộ. Với bản lĩnh lưu trữ thông tin lớn to tương tự, HS ngoài các nội dung học trên lớp còn có thể tham khảo các tài liệu phân phối phong phú nhiều chủng loại, các tự điển bách khoa toàn thư multimedia trên ổ cứng, trên đĩa CD ROM hoặc trên mạng Internet. Nhờ bản lĩnh hỗ trợ tư liệu đặc thù của hệ thống multimedia có thể cho phép GV và HS tổ chức các hoạt động dạy học theo những phương thức mới chủ động hơn, phong phú hơn và hăng hái hơn. Hiện nay HS cảm thấy rất ngại lúc tra cứu tài liệu vì thiếu thời kì và thiếu nguồn tài liệu tra cứu. Nhưng với giấy tờ dạy học đã được multimedia hóa sẽ giúp HS giải quyết được gian khổ này. Máy tính với những ứng dụng tin học đã giúp xử lí thông tin cực kỳ mau chóng, chỉ với 1 động tác kích chuột HS tìm thấy ngay thông tin nhưng mà mình mong muốn. Kể cả các thông tin còn nằm trên máy chủ nào đấy trên toàn cầu thì thời kì truy cập cũng chỉ tính bằng phút thậm chí là mấy giây thôi. Truy cập thông tin đơn giản, mau chóng giúp HS phấn chấn, háo hức, tiết kiệm thời kì và hiệu suất học tập được phát triển hơn.
– Giúp GV đổi mới cách thức dạy học, bình chọn kết quả học tập của HS:
Khi ứng dựng CNTT trong dạy học, HS được nhúng vào 1 môi trường học tập cực kỳ mới mẽ, lôi cuốn, nhiều chủng loại và có tính phân phối cao.
Môi trường này chưa hề có trong nhà trường truyền thống trước đây. Ấy là các vi toàn cầu, các môi trường hoạt động hăng hái mới mẻ như mạng internet, thư viện điện tử, bài giảng điện tử, lớp học ảo, trường học ảo… CNTT mở ra triển vọng lớn to trong việc đổi mới các cách thức và vẻ ngoài dạy học. Những xu thế dạy học ko truyền thống như dạy học theo lí thuyết kiến tạo, theo ý kiến hoạt động, dạy học phát hiện và khắc phục vấn đề… càng có nhiều điều kiện để áp dựng phổ thông và khai thác triệt để điểm mạnh và giải quyết các giảm thiểu (về mặt thời kì, ko gian và sự phân hoá của HS) đối với mỗi cách thức đấy. Trong môi trường CNTT, các vẻ ngoài dạy học như dạy học nhất tề, dạy học theo nhóm, dạy học tư nhân cũng từ đấy nhưng mà sẽ có đổi mới như: tư nhân tự học, tự nghiên cứu và làm việc với máy vi tính, các tư nhân nghiên cứu, trao đổi và làm việc theo các nhóm cởi mở các nhóm ảo. Xuất hiện việc dạy học theo vẻ ngoài lớp học phân tán qua mạng, dạy học từ xa, dạy học cá thể hoá, dạy học qua cầu truyền hình…
Đặc thù với mạng internet, HS có thể tự tra cứu thông tin ở các thư viện điện tử, cập nhật các thông tin mới mẻ, luận bàn với các HS và GV ở nhiều nơi không giống nhau trên toàn cầu vào bất kì thời khắc nào đấy. Đối với HS, toàn cầu kiến thức được mở mang hầu như vô bờ, họ ko bị giới hạn bởi nguồn kiến thức (hầu như độc nhất vô nhị) của GV trên lớp và sách giáo khoa hàng 5 nữa. Điều đấy mở ra bản lĩnh tăng trưởng năng lực tự học, tự kiếm tìm kiến thức, làm việc độc lập của từng HS. Trong tình hình đấy, người ta lo âu vai trò của GV sẽ bị thủ tiêu hay suy giảm. Nhưng thực tiễn, vai trò của GV vẫn cực kỳ quan trọng và được phát huy hiệu quả hơn trong công đoạn dạy học. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng thuộc tính của vai trò này đã chỉnh sửa: GV chẳng phải là nguồn kiến thức độc nhất vô nhị, chỉ tiến hành việc chuyển tải kiến thức nhưng mà GV giữ vai trò chỉ dẫn, chỉ huy. Mối quan hệ giữa GV và HS trong bối cảnh mới cũng sẽ khác với trước đây. GV chẳng phải là người ra lệnh cho HS phải học cái gì nhưng mà biến thành người cố vấn, trợ tạo điều kiện cho HS. GV nhập vai trò tổ chức, điều khiển, phê chuẩn việc ảnh hưởng lên cả HS và môi trường CNTT. Trong điều kiện sử dựng các công cụ dạy học truyền thống, 1 GV phải ân cần đến vài chục HS thì dù có phấn đấu tới đâu, việc bảo đảm nguyên lý phân hóa trong dạy học vẫn giảm thiểu. Tất cả các cụ thể diễn biến của hoạt động học tập của mỗi HS khó được GV nắm bắt được và xử lí kịp thời. Về lí luận, cần phải giúp từng HS làm việc theo đúng bản lĩnh thích hợp năng lực về kiến thức và các kỹ năng của mình, có nhịp điệu làm việc thích hợp với tư nhân. Điều này hoàn toàn có thể tiến hành được nếu có CNTT viện trợ. Khi này mọi HS đều có 1 “trợ giảng” riêng, có thể được viện trợ tại thời khắc gian khổ bất kì, đúng khi với liều lượng phù hợp. Mỗi HS đều có 1 phương án làm việc riêng, tiến hành nhiệm vụ thích hợp tư nhân HS đấy (có thể giống nhưng mà cũng có thể khác tất cả các bạn khác), các nhiệm vụ này được ứng dụng hoạch định thích hợp. Điều này còn tạo thời cơ học tập cho HS vùng bóng gió heo lánh, HS khuyết tật, góp phần tăng lên tính nhân bản cho nền giáo dực. Phần mềm được sử dựng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay và bảo đảm mối liên hệ ngược của GV đến từng HS trong công đoạn dạy học, lúc làm bài tập trên máy vi tính, HS sẽ được kiểm soát, được tương trợ và bình chọn tại chỗ.
Trong 1 lớp học, HS có trình độ không giống nhau. Đây là 1 gian khổ đối với các GV lúc giảng dạy theo cách thức truyền thống, với hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia cho phép giải quyết được gian khổ này. Khi HS mắc nhiều lỗi khi mà làm bài tập, máy vi tính sẽ khuyến cáo và đưa ra cho HS những bài tập có cùng nội dung nhưng mà chừng độ dễ hơn. Khi làm việc độc lập với máy tính HS có thể tự chọn cho mình 1 nhịp điệu làm việc thích nghi riêng. Trong nhiều ứng dụng dạy học có sự tương tác của HS với máy tính người ta còn đưa vào đồng hồ đếm thời kì cho phép HS theo dõi được vận tốc làm bài hoặc để khống chế thời kì làm bài. HS có thể tự định lượng được tân tiến của mình trong học tập.
Khi sử dựng hệ thống thiết bị dạy học đa công cụ Multimedia, các chuyên gia giáo dực và tin học đã cộng tác thiết kế các ứng dụng dạy học nhằm tạo điều kiện cho HS có thể làm việc độc lập và tự học với bản lĩnh lường trước được những gian khổ HS gặp phải lúc thực hiện các hoạt động lĩnh hội tri thức và luyện tập kỹ năng, các ứng dụng đã đưa ra những lời giảng giải, chỉ ra các nguyên cớ mắc lỗi, đưa vào các nội dung phân phối lí thuyết, các bài tập bổ trợ… Quá trình học tập của HS ko còn bị dựa dẫm hoàn toàn vào nội dung bài giảng của GV như trong các cách thức truyền thống (giảng dạy mặt đương đầu).
Nhờ việc tổ chức hệ thống dữ liệu đơn giản truy cập, thứ tự học tập ko nhất quyết phải được thực hiện theo 1 trình tự nhất mực. Máy vi tính cho phép HS tiến hành đơn giản các hoạt động luyện tập. HS có thể sử dựng cách thức quy nạp hoặc suy diễn…
– Tạo ra nhiều hoạt động học tập lôi cuốn và duy trì sự hứng thú học tập của HS:
Trong ổ cứng của máy tính, CD ROM là cơ sở dữ liệu, hỗ trợ cho HS các tài liệu học tập lôi cuốn về nội dung văn bản, hình ảnh động, tĩnh, âm thanh, các đoạn video clip… nhưng mà các tài liệu học tập thông thường khác chẳng thể có được. Nhiều hoạt động học tập đã được thiết kế thành các ứng dụng trò chơi học tập. Mỗi lúc xong xuôi các bài tập, HS có thể thu được từ máy những nhận xét chuẩn xác, những lời khen lúc đạt được kết quả tốt và những lời hướng dẫn lúc kết quả chưa đạt đề xuất… HS ko cảm thấy mệt mới, buộc phải nhưng mà cảm thấy hứng thú tiến hành các trò chơi học tập, hứng thú học tập.
Trong công đoạn học tập, tuỳ theo cảnh ngộ, điều kiện vốn tri thức của từng HS có không giống nhau, mỗi HS cần có những đề xuất viện trợ không giống nhau. Khi thiết kế ứng dụng, các các kiến trúc sư đã đưa vào nhiều chương trình viện trợ HS vượt qua gian khổ lúc gặp phải trong công đoạn học tập. Mỗi lúc HS gặp phải gian khổ có thể đơn giản đề xuất máy đưa ra các chương trình viện trợ. HS có thể nạp dữ liệu vào máy tính, chỉnh sửa dữ liệu và được kết quả mới.
Do hiện ra máy tính vạn năng, hiện ra các sách giáo khoa điện tử vì thế các bảng tra cứu, số tay toán học, bàn tính gảy, thước tính… sẽ được phê chuẩn lại (về bản lĩnh còn đó hoặc bản lĩnh sử dựng trong các cảnh huống sư phạm giảm thiểu nào đấy). Để tăng lên chất lượng dạy học, cần hiểu rằng chỉ riêng máy vi tính thì ko đủ nhưng mà cần tăng mạnh nghiên cứu tạo ra môi trường đa công cụ gồm có máy tính, video, máy chiếu, mạng internet, website giáo dực…
Trong 1 lớp học, chứng ta thường gặp 1 số HS luôn có tâm lí rụt nè, mặc cảm ít lúc dám phát biểu nghĩ suy của mình trước lớp. Những HS này thường có kết quả học tập thấp hơn các HS khác. Các HS này thường có tâm lí sợ mắc lỗi trước mọi người. Tự các em vẫn có thể làm việc và tương tác với máy tính cả lúc ko có GV. Làm việc độc lập với máy tính sẽ dần dần giúp các HS này giải quyết được tâm lí mặc cảm, nhát gan trong học tập. Việc sử dựng CNTT ngay lúc ngồi trên ghế nhà trường đã trục tiếp góp phần tạo nên và tăng trưởng kỹ năng sử dựng thuần thục máy vi tính và làm việc trong môi trường CNTT cho HS phổ biến. Đây là những kỹ năng chẳng thể thiếu của công nhân trong thời đại tăng trưởng của CNTT. Sử dựng CNTT trong công đoạn tích lũy và xử lí thông tin đã giúp tạo nên và tăng trưởng cho HS cách khắc phục vấn đề hoàn toàn mới, đưa ra các quyết định trên cơ sở kết quả xử lí thông tin. Cách học này tránh được kiểu học vẹt, họ ứng phó, máy móc, nhồi nhét tiêu cực trước đây, nó yêu cầu sự độc lập, tự giác và nghiêm chỉnh của HS trong học tập. Trong công đoạn học tập với sự viện trợ của CNTT, HS có điều kiện tăng trưởng năng lực làm việc với cường độ cao 1 cách khoa học, đức tính chuyên cần, chuyên cần, bản lĩnh độc lập, thông minh, tự chủ và kĩ luật cao. Việc tự bình chọn, rà soát tri thức bản thân bằng các ứng dụng trên máy vi tính cũng giúp HS đoàn luyện đức tính trưng thực, cẩn thận, chuẩn xác và kiên cường, bản lĩnh quả quyết.
Với việc ứng dựng công nghệ thông tin và liên kết các cách thức dạy học hăng hái, GV sẽ tổ chức được các hoạt động học tập nhiều chủng loại, phong phú, đạt hiệu quả cao.
Trong công đoạn xử lí dữ liệu để đáp ứng những thành phầm thích hợp với tiêu chuẩn, tiêu chí cần có 1 số ứng dụng phân phối, chả hạn như: 1 số văn bản, tệp tin được lưu dưới định dạng pdf cần có Adobe Reader mới đọc được. 1 số đoạn video, hình ảnh cần chuyển định dạng cho thích hợp việc sử dựng như ứng dụng: xUisoft, macromedia. 1 số ứng dụng cắt, ghép phim: Movie maker, Hero supper Player… 1 số ứng dụng phân phối soạn giảng như: Photo stoiy (tạo album ảnh động), Flash Player (tạo hiệu ứng chữ), Violet (trắc nghiệm), Proshow gold (đồng hồ), Micorosoft Encarta (bộ sưu tập các video, hình ảnh, thông tin, trò chơi về động vật)…
Việc truy cập internet tạo cho GV niềm ham mê, hứng thú trong học tập và giảng dạy, thực hành bản lĩnh làm việc và nghiên cứu độc lập. GV có thể chủ động, kết hợp nhiều nguồn tri thức, kỹ năng trong 1 bài giảng có sử dựng công nghệ. Ngoài ra, công nghệ giúp chúng ta có thể tiến hành nhiều công tác đồng thời, có bản lĩnh chuyển sự để mắt tới 1 cách mau chóng, thời kì phục vụ nhanh, luôn tiến hành kết nối, thức đẩy công đoạn làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn nữa, công nghệ kết hợp các nguồn kiến thức lại với nhau, kết nối công dân thế giới. Điều này khiến cho ko gian địa lí bị xóa nhòa và công nghệ biến thành 1 phần trong cuộc sống.
Hoạt động 2. Mày mò những cấp độ ứng dựng CNTT trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ giấy tờ dạy học ở trường trưng học cơ sở.
THÔNG TIN PHẢN HỒI
Việc ứng dựng CNTT trong xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học ở trường THPT biểu lộ rất nhiều chủng loại, trong thực tiễn nó được khai triển ở các chừng độ rất không giống nhau. Tuy từng trường hợp chi tiết, tuỳ chừng độ nhận thức và kỹ năng công nghệ thông tin của GV, trang thiết bị nhưng mà các trường ứng dựng CNTT ở chừng độ không giống nhau:
– Mức l, ứng dựng CNTT viện trợ GV 1 số thao tác nghề nghiệp:
Trong công đoạn dạy học, GV phải làm 1 loạt công tác như soạn thảo giáo án, ra bài rà soát, nhận xét HS, sẵn sàng các đồ dùng dạy học, các tài liệu cho tiết học… Rất nhiều công tác tương tự sẽ được viện trợ bởi các thiết bị CNTT như chương trình soạn thảo văn bản, bảng tính Excel, các thiết bị quét tư liệu ảnh, chụp ảnh tư liệu. Giáo án sẽ được soạn bởi các ứng dựng văn phòng, các bài rà soát test có thể được chọn lọc bởi nhà băng đề trắc nghiệm, in ấn nhờ ứng dụng dụng cụ viện trợ riêng. Các tư liệu chuyên dụng cho bài dạy học được lấy từ các website trên Internet, được sao chụp từ máy scaner… Nhờ các thiết bị CNTT nhưng mà công việc sẵn sàng của GV đơn giản hơn và chất lượng được phát triển hơn hẳn. Khi này các thiết bị CNTT ko cần nhiều, chỉ cần 1 vài máy vi tính và bộ thiết bị máy quét ảnh, máy photo, 1 máy tính có kết nối Internet, 1 máy in là đủ chuyên dụng cho cho tất cả GV của trường. Đây là chừng độ thấp nhất nhưng mà tầm thường nhất ngày nay.
– Mức 2, ứng dựng CNTT phân phối 1 khâu trong công đoạn dạy học.
Ngoài việc sử dựng CNTT để sẵn sàng cho tiết dạy học chi tiết, GV có thể sử dựng CNTT để phân phối 1 công tác nào đấy trong công đoạn dạy học. Ví dự thay cho việc dùng phấn viết lên bảng đen truyền thống GV dùng máy chiếu để biểu diễn những nội dung tri thức toán học mấu chốt. Việc trình chiếu bài dạy học giúp GV có thể đưa các thông tin ra mau chóng, ngoài kênh chữ còn kèm theo các kênh âm thanh, hình ảnh, phim… có thể tạo ra hiệu ứng tốt đến HS. Khi này, lớp học chỉ cần trang bị máy chiếu multimedia projector, GV chỉ cần kèm theo 1 máy vi tính là đủ. Đây là chừng độ nhưng mà nhiều trường đang khai triển. Tuy vậy CNTT chỉ được ứng dựng trong cảnh huống dạy học nhất tề là chủ quản, chưa phân phối đến những vẻ ngoài dạy học tư nhân và dạy học theo nhóm, các ứng dụng được sử dựng nhưng mà chỉ là trình chiếu cho cả lớp theo dõi.
– Mức 3, ứng dựng CNTT phân phối việc tổ chức hoạt động dạy học 1 số chủ đề theo chương trình dạy học
Ngoài việc trình chiếu thông tin, GV sử dựng các ứng dụng dạy học được cài vào các máy tính. Dưới sự chỉ dẫn của GV, từng HS làm việc trong môi trường do ứng dụng dạy học tạo ra, tương tác với các nhân vật trên màn hình và từ đấy tiếp cận những định nghĩa, định lí, giải bài tập và những kỹ năng mới. Với chừng độ này, từng HS có dịp làm việc với máy vi tính, tự mình thí nghiệm, dự báo, rà soát giả thuyết, từng tư nhân làm việc với vận tốc tùy thuộc bản lĩnh của mình. HS đạt được trình độ không giống nhau tuỳ năng lực từng em. Khi này việc tư nhân hoá trong dạy học sẽ đạt được trình độ cao. Để đạt được chừng độ này, cần có các ứng dụng dạy học tốt, dành cho tầng lớp học không giống nhau. Không những thế, cần trang bị máy tính đủ để mỗi HS có dịp sử dựng máy tính thường xuyên khi mà học toán. Máy vi tính có thể được trang bị tập trưng trong 1 hoặc vài phòng máy (computer lab), hoặc đưa về từng phòng học bộ môn Toán (mỗi phòng có vài máy tính). Chừng độ này chỉ có ở 1 số trường có điều kiện và tập trưng ở khu vực đô thị.
– Mức 4, tích hợp CNTT vào toàn thể công đoạn dạy học.
Chừng độ nhưng mà việc ứng dựng CNTT đều được tính tới trong công đoạn khai triển mỗi thành tố của công đoạn dạy học. Việc ứng dựng CNTT được đưa vào 1 cách tối ưu nhằm mang lai hiệu quả cao. Như vậy, bản lĩnh ứng dựng CNTT phải được tính tới lúc phê chuẩn từng yếu tổ của công đoạn dạy học ở trường THPT.
– Mức 5, ứng dựng CNTT vào dạy học qua mẫu hình e-learning:
Chừng độ này đã đưa tới mẫu hình “trường học sáng dạ”. Đây là 1 kiểu trường học mới. Đặc điểm của nó là cực kỳ giàu công nghệ và phương thức làm việc khác với nhà trường truyền thống, tập trưng vào HS với sự phân phối đắc lực của CNTT. chương trình học được GV thiết kế thích hợp với trình độ, ước muốn của HS. Vận tốc dạy học và cách thức thích hợp với bản lĩnh nhận thức của HS. HS có dịp được tự học 1 cách chủ động, thông minh, phát hiện và khắc phục vấn đề theo cá tính nghiên cứu khoa học với sự viện trợ của GV; việc dạy học bằng lớp học ảo theo vẻ ngoài e-learning, m-learning. Như vậy, CNTT có thể phân phối, hỗ trợ dụng cụ và khoáng sản để HS tiến hành các hoạt động sau: Tính toán xử lí thông tin nhờ các chương trình ứng dựng, luận bàn, thể hiện kết quả nghiên cứu nhờ các ứng dụng dụng cụ trình chiếu, luận bàn với GV, HS ở xa phê chuẩn chat, hoặc forum, làm bài rà soát bình chọn nhờ các module thi online. Khi ứng dựng CNTT vào xây dựng và sử dựng giấy tờ dạy học cần tuỳ theo điều kiện chi tiết về ứng dụng, thiết bị, khoáng sản, trình độ HS… để khai thác hết các bản lĩnh của CNTT nhằm giúp HS tích luỹ tri thức và kinh nghiệm nhờ các hoạt động nhiều chủng loại trên. Bảo đảm cho HS THPT tạo nên và tăng trưởng năng lực tự học, tự nghiên cứu để tiếp cận với cách học ở đại học. Phần mềm có các tương tác đồng bộ và ko đồng bộ giữa các HS và GV, phân phối GV tổ chức bình chọn và giúp HS tự bình chọn kết quả học tập.
Việc ứng dựng CNTT trong dạy học sẽ giúp duy trì và phát huy việc học phê chuẩn kiến tạo xã hội. Trong dạy học, kiến tạo xã hội được tiến hành tốt nhất phê chuẩn các hoạt động cùng nhau khắc phục nhiệm vụ nhận thức để từ đấy tạo nên năng lực tiến hành mới. Hạ tầng để tiến hành đề xuất này là hệ thống khoáng sản, bao gồm các video dip, nhà băng câu hỏi trắc nghiệm, bộ số liệu mẫu chuyên dụng cho cho các tính toán, thư viện mẫu hình dạy học ảo tương tác được… Cơ sở kĩ thuật là các ứng dụng, các kĩ thuật thiết kế tương tác, tổ chức dữ liệu. Điều này rất thích hợp với nguyên lắc hình thành môi trường học tập kiến tạo theo định hướng đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT ngày nay.
Hoạt động 3. Minh họa việc ứng dựng công nghệ thông tin trong xây dựng, bổ sung thông tin và lưu trữ kế hoạch dạy học (giáo án, bài giảng).
THÔNG TIN PHẢN HỒI
Giấy má dạy học của GV ở trường THPT gồm kế hoạch dạy học, giáo án, tài liệu chuyên môn, số thu thập tri thức, ma trận và đề thi… Sau đây là minh họa cho việc ứng dựng CNTT để soạn kế hoạch dạy học theo bài học (còn gọi là giáo án, bài soạn) góp phần tiến hành đổi mới cách thức dạy học ở trường THPT.
1. Khái niệm kế hoạch bài học điện tử (giáo án điện tử)
Giáo án dạy học là dàn ý lên lớp của thầy cô giáo bao gồm nhan đề của bài lên lớp, mục tiêu giáo dực và giáo dưỡng, nội dung, cách thức, thiết bị, những hoạt động chi tiết của thầy và trò, khâu rà soát bình chọn… Tất cả được ghi ngắn gọn theo trình tự thực tiễn sẽ diễn ra trong giờ lên lớp. Giáo án được thầy cô giáo biên soạn trong công đoạn sẵn sàng lên lớp và quyết định phần to sự thành công của bài học. Lập mưu hoạch bài học là công tác của thầy cô giáo trước lúc lên lớp, là xây dựng 1 bản kế hoạch cụ thể cho mọi giờ lên lớp. Kết quả của công tác này còn được gọi là kế hoạch bài học hay bài soạn. Thiết kế nội dung phương pháp dạy học và giáo dực là khâu quan trọng của công đoạn sư phạm.
So với công cụ dạy học cũ chỉ có bảng đen, phấn trắng và sách giáo khoa… thì việc thiết kế nội dung bài giảng trên máy vi tính với sự phân phối của hệ thống dạy học đa công cụ (Multimedia) là 1 bước ngoặt to. Bài giảng điện tử sẽ phân phối cho GV, mang đến cho HS phổ biến nhiều thông tin hơn, lôi cuốn hơn qua các kênh thông tin nhiều chủng loại và phong phú: nội dung văn bản, âm thanh, hình ảnh tĩnh, động. Các đoạn video clip chân thật. Đặc thù ở 1 số nội dung tri thức người ta còn có thể xây dựng các mẫu hình mô phỏng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng để minh hoạ hoặc chứng minh định luật, đã biến công đoạn HS nhận thức các tri thức trừu tượng thành công đoạn tự HS lĩnh hội tri thức mới 1 cách háo hức, hăng hái. Công tác này cũng giúp GV giảng bài lôi cuốn và HS tiếp nhận tri thức đỡ trừu tượng hơn.
Giáo án điện tử là 1 vẻ ngoài tổ chức bài lên lớp nhưng mà ở đấy toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học đều đã được chương trình hoá, do GV điều khiển phê chuẩn môi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cần xem xét giáo án điện tử chẳng phải thuần tuý là các tri thức nhưng mà HS ghi vào vở nhưng mà đấy là toàn thể hoạt động dạy và học hăng hái – tất cả các cảnh huống sẽ xảy ra trong công đoạn truyền đạt và tiếp nhận tri thức của HS. Giáo án điện tử nhập vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp để biến công đoạn dạy học tiêu cực thành công đoạn dạy học hăng hái.
Các đơn vị của bài học đều phải được multimedia hoá. Multimedia được hiểu là đa công cụ, đa môi trường, đa truyền thông. Trong môi trường multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (Text), đồ hoạ (Graphics), hoạt ảnh (Animation), ảnh chụp (Image), âm thanh (Audio) và phim video (video clip)…
Giáo án điện tử là bản thiết kế chi tiết toàn thể kế hoạch hoạt động dạy học của GV và HS trong giờ lên lớp. Toàn bộ hoạt động dạy học đấy đã được multimedia hóa 1 cách cụ thể, có cấu trúc chặt chẽ và lôgic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là 1 thành phầm của hoạt động thiết kế bài dạy được trình bày bằng vật chất trước lúc bài dạy học được thực hiện. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của 1 bài giảng điện tử. Xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là 2 cách gọi không giống nhau cho 1 hoạt động chi tiết để có được 1 bài giảng điện tử trong công đoạn dạy học hăng hái.
2. Quy trình xây dựng giáo án điện tử
a. Mày mò nội dung bài dạy, xác định tiêu chí bài học
Đây là công tác cần làm trước hết của thầy cô giáo. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài qua sách giáo khoa, sách thầy cô giáo và các tài liệu khác có liên can.
Trong dạy học hướng tập trưng vào HS, tiêu chí phải chỉ rõ học xong bài, HS đạt được cái gì. Chỉ tiêu ở đây là tiêu chí học tập, chứ chẳng phải là tiêu chí giảng dạy, nghĩa là chỉ ra thành phầm nhưng mà HS có được sau bài học. Đọc kĩ sách giáo khoa, liên kết với các tài liệu tham khảo để mày mò nội dung của 1 mục trong bài và cái đích cần đạt đến của 1 mục. Trên cơ sở đấy xác định đích cần đạt đến của cả bài về tri thức, kỹ năng, thái độ. Ấy chính là tiêu chí của bài.
Chọn lọc tri thức căn bản, xác định đúng những nội dung trọng điểm. Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ biến được tuyển lựa từ khối lượng kiến thức khổng lồ của khoa học bộ môn, được xếp đặt 1 cách lôgíc, khoa học, bảo đảm tính sư phạm và thực tế cao. Do đó, cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn.
Đây là điều buộc phải thế tất vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chú yếu; chương trình là pháp lệnh cần phải làm theo. Căn cứ vào đấy để chọn lọc tri thức căn bản là nhằm bảo đảm tính hợp nhất của nội dung dạy học trong toàn quốc. Mặt khác, các tri thức trong sách giáo khoa đã được quy định để dạy cho HS. chọn tri thức căn bản là chọn tri thức ở trong sách giáo khoa chứ chẳng phải là ở tài liệu nào khác. Tuy nhiên, để xác định được đúng tri thức căn bản mỗi bài thì cần phải đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở mang hiểu biết về vấn đề cần giảng dạy và tạo bản lĩnh chọn đúng tri thức căn bản. Việc tuyển lựa tri thức căn bản của bài dạy học có thể gắn với việc xếp đặt lại cấu trúc của bài để làm nổi trội các mối liên hệ giữa các hợp phần tri thức của bài, từ đấy rõ thêm các trọng điểm, trọng tâm của bài. Việc làm này đích thực nhu yếu, ngoài ra chẳng phải ờ bài nào cũng có thể thực hiện được đơn giản. Cũng cần để mắt tới việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên lý ko làm chuyển đổi ý thức căn bản của bài nhưng mà các tác giả sách giáo khoa đã dày công xây dựng.
Soạn giáo án (kế hoạch dạy học) theo hướng dạy học hăng hái, sẵn sàng các công cụ phân phối khác.
b. Viết kịch bản sư phạm cho việc thiết kế giáo án trên máy
Khi tiến hành bước này người thầy cô giáo phải tưởng tượng được toàn thể nội dung cũng như những hoạt động sư phạm trên lớp của toàn thể tiết dạy học và xác định được phần nào, nội dung nào của bài cần sự phân phối của máy vi tính để tiết học đấy đạt hiệu quả cao.
Tên các (Hoạt động) – Thời gian – Nội dung – Hình ảnh trình bày trên máy vi tính.
c. Multimedia hoá tri thức
Đây là bước rất quan trọng cho việc thiết kế giáo án điện tử, là nét đặc thù căn bản của giáo án điện tử để phân biệt với các loại giáo án truyền thống, hoặc các loại giáo án có sự phân phối 1 phần của máy vi tính. Việc Multimedia hóa tri thức được tiến hành qua các bước:
Dữ liệu hoá thông tin tri thức
Phân loại tri thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ, ảnh tĩnh, phim, âm thanh…
Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dựng trong bài học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ 1 ứng dụng dạy học nào đấy hoặc từ Internet… hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh quét, ảnh chụp, quay video, bằng các ứng dụng đồ họa chuyên dựng như Macromedia ..
Chọn lựa các ứng dụng dạy học có sẵn cần dùng tới trong bài học để đặt kết hợp.
Xử lí các tư liệu nhận được để tăng lên chất lượng về hình ảnh, âm thanh.
Khi sử dựng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải bảo đảm các đề xuất về mặt nội dung, cách thức, thẩm mĩ và ý nghĩ sư phạm.
d. Xây dựng các thư viện tư liệu
Sau lúc có được đầy đủ tư liệu cần phục vụ bài giảng điện tử, phải thực hiện xếp đặt tổ chức lại thành thư viện tư liệu, nghĩa là tạo được cây folder có lí. Cây folder có lí sẽ tạo điều kiện kiếm tìm thông tin mau chóng và giữ được các kết hợp trong bài giảng tới các tập tin âm thanh, video clip lúc sao chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác.
e. Thể hiện kịch bản trên máy vi tính
– Xử lí chuyển các nội dung trên thành giáo án điện tử trên máy vi tính.
– Dựa trên 1 số ứng dụng dụng cụ tiện ích (LectureMaker, Microsoft Power Point, Violet…) để trình bày kịch bản đấy.
– Nếu thầy cô giáo còn giảm thiểu về trình độ tin học thì ở bước này cần có thêm sự phân phối của người có trình độ tin học, để bàn luận luận bàn hợp nhất việc trình bày kịch bản trên máy tính, vừa làm vừa phải điều chỉnh kịch bản cho thích hợp với tiếng nói nhưng mà máy tính có thể trình bày được vì việc trình bày kịch bản trên máy tính còn lệ thuộc về mặt thời kì, về công nghệ và trình độ của người trình bày, vì đây là công cụ phân phối nên việc thiết kế trên máy phải bảo đảm các đề xuất công cụ dạy học yêu cầu: tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mĩ.
– Chọn lọc tiếng nói hoặc các ứng dụng biểu diễn để xây dựng tiến trình dạy học phê chuẩn các hoạt động chi tiết.
Sau lúc đã có các thư viện tư liệu, GV cần chọn lọc tiếng nói hoăc các phầm mềm trinh diễn thông dựng để thực hiện dựng giáo án điện tử.
Trước hết cần chia công đoạn dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt động nhận thức chi tiết. Dựa vào các hoạt động đấy để định ra các slide (trong Microsoft office PowerPoint) hoặc các trang trong Frontpage. Sau đấy xây dựng nội dung cho các trang (hoặc các slide). Tùy theo nội dung chi tiết nhưng mà thông tin trên moi trang slide có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip…
Văn bản cần thể hiện ngắn gọn cô đọng, chú yếu là các tiêu đề và dàn ý căn bản. Nên dùng 1 loại Font chữ tầm thường, dễ dãi, màu chữ được dùng hợp nhất tuy theo mục tiêu sử dựng không giống nhau của văn bản như câu hỏi gợi mở, dẫn dắt, hoặc giải thích, giảng giải, ghi nhớ, câu giải đáp… Khi thể hiện nên sử dựng lược đồ khối để HS thấy ngay được cấu trúc lôgic của những nội dung cần thể hiện.
Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền (Background) hợp nhất cho các trang slide, giảm thiểu sử dựng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau.
Không nên lạm dựng các hiệu ứng biểu diễn theo kiểu “bay nhảy” lôi cuốn sự tò mò ko nhu yếu của HS, phân tán để mắt tới trong học tập, nhưng mà cần để mắt tới làm nổi trội các nội dung trọng điểm, khai thác triệt để các ý nghĩ tiềm tàng bên trong các nhân vật biểu diễn phê chuẩn việc nêu vấn đề, chỉ dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm tăng trưởng tư duy của HS. cái quan trọng là nhân vật biểu diễn ko chỉ để thầy tương tác với máy tính nhưng mà chính là phân phối 1 cách hiệu quả sự tương tác thầy- trò, trò – trò.
Cuối cùng là tiến hành các kết hợp (Hyperlink) có lí, lôgic lên các nhân vật trong bài giảng. Đây chính là điểm mạnh nổi trội có được trong bài giảng điện tử nên cần khai thác tối đa bản lĩnh kết hợp. Nhờ sự kết hợp này nhưng mà bài giảng được diễn ra 1 cách cởi mở, thông tin được truy xuất kịp thời, HS dễ tiếp nhận.
Thể nghiệm, tu sửa và hoàn thiện
– Sau lúc thiết kế xong, phải thực hiện chạy thử chương trình, rà soát các sơ sót, đặc thù là các kết hợp để thực hiện tu sửa và hoàn thiện.
– Chạy thử (chạy thử từng phần và toàn thể các slide để điều chỉnh những sơ sót về kĩ thuật trên máy tính).
– Chỉnh sửa và hoàn thiện giáo án điện tử.
– Dạy thử (Dạy thử toàn thể bài trước GV hoặc cả GV và HS) để có thể điều chỉnh nội dung cũng như vẻ ngoài trình bày trước lúc dạy chính thức.
– Nếu là giáo án điện tử viết cho người khác sử dựng thì cần thêm bước thứ 5.
Viết bản chỉ dẫn
– Kĩ thuật sử dựng (cách mở đĩa, mở bài giảng,..).
– Ý đồ sư phạm của từng phần bài giảng, từng slide được thiết kế trên máy vi tính.
– Phương pháp giảng dạy, việc liên kết với các cách thức khác, công cụ khác (nếu có).
– Hoạt động của GV và HS, sự phổi hợp giữa GV và HS.
– Tương tác giữa GV, HS và máy tính…
Sử dựng ứng dụng thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học online trên mạng internet.
1 trong những khâu quan trọng nhất của dạy học online là việc xây dựng nội dung dành cho từng khoá học chi tiết. Nội dung này được xây dựng dựa trên nền móng của web và Internet. Hiện nay nội dung các bài giảng điện tử của hệ thống e-learning chủ quản được xây dựng trên các ứng dụng như: ProntPage, Script, exe, Lectora…
Lectora là 1 ứng dụng CAS có bản lĩnh tương tác với HS và làm theo các chuẩn của E-Learning. Nó chứa đựng toàn thể kế hoạch cũng như kịch bản dạy học của GV nhằm hỗ trợ tri thức cho HS. Phần mềm Lectora Enterprise Edition hỗ trợ 1 nhóm hoàn chỉnh các dụng cụ nhu yếu để đáp ứng 1 thành phầm mang tính nhiều năm kinh nghiệm về xuất bản web nhưng mà tốn ít thời kì nhất. Nó tạo điều kiện cho những GV chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế nội dung cho bài giảng điện tử.
Phần mềm Lectora ô sin xây dựng và xuất bản các chủ đề 1 cách đơn giản. Ta có thể tập trưng vào việc tổ chức nội dung và thông minh nội dung dạy học. Trong lúc ứng dụng sẽ tự động hoàn thiện những phần soạn chương trình phực tạp và những nhiệm vụ xuất bản cho những tính năng và sự định hướng cho 1 chủ đề nào đấy.
Sử dựng Lectora để xây dựng các chủ đề sẽ làm tăng hiệu quả công tác, tiết kiệm thời kì và kinh phí. Đây là 1 gói ứng dụng cho phép 1 tư nhân hoặc 1 nhóm có thể đơn giản tạo ra các nội dung ảnh hưởng lẫn nhau. Phần mềm Lectora có nhiều điểm đồng nhất với Power Point là tiện ích nhưng mà đông đảo GV THPT thường dùng để soạn giáo án điện tử, ngoài ra Lectora có điểm mạnh là có thể xuất bản như 1 website hoặc là xuất bản thành 1 chương trình ứng dựng độc lập từ CD-ROM. Lectora phân phối 1 cách phổ thông những kiểu công cụ thông dựng như: Văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình. Ngoài ra, có cả những công nghệ được ưa thích trên internet như là shock wave, Flash, HTMI… với Lectora, chúng ta sẽ tạo ra những nút bấm 3 hiện trạng bằng các ảnh hoạt hình nhưng mà ko cần có tri thức về lập trình, rà soát được toàn thể công đoạn hoặc chỉ 1 thời khắc chi tiết…
Bài học trong Lectora được xây dựng dựa trên những quy ước sau đây:
– 1 bài học được hiểu như 1 chương của cuốn sách (chapter).
– 1 bài học là tập trung 1 hoặc nhiều phần (sections).
– 1 phần bao gồm tập trung 1 hay nhiều trang (page).
– Trong 1 trang có các chủ đề học tập. 1 hoạt động học tập có thể là sự liên kết của nhiều hành động, động tác như: Đọc 1 đoạn văn bản, nhìn và quan sát 1 hình ảnh, lắng tai 1 âm thanh, quan sát 1 hoạt hình, thí nghiệm, thực hành ảo, mô phỏng hay 1 vài chỉ dẫn để tiến hành các bài tập… nhằm giúp HS lĩnh hội được tri thức, kỹ năng trong hành động.
Xây dựng nội dung cho khoá học online bằng ứng dụng Lectora:
– Mẫu hình cấu trúc nội dung khoa học: Trong môi trường E-Learning, 1 khóa học được chia thành nhiều module không giống nhau. Trong mỗi module, có thể tách thành các module bé hơn (có thể tưởng tượng 1 cấu trúc cây các module). Như vậy, 1 khóa học như là 1 module chính, chứa các module con bé hơn. Việc phân phân thành các module tương tự sẽ mang đến nhiều thuận tiện: người kiến tạo nội dung có thể đưa ra 1 cấu trúc cây nội dung hoàn chỉnh, sau đấy có thể phân chia cho những người tham dự viết nội dung, mỗi người đảm trách 1 hoặc 1 số module nào đấy. Bản thân mỗi module sẽ được đóng gói lại theo các chuẩn định trước, mỗi gói này lúc đóng gói sẽ có kích tấc không giống nhau. Việc tách bé nội dung sẽ cho phép GV đơn giản tải từng phần lên mạng nối ghép lại với nhau. Đối với những gói quá to, bản lĩnh bị ngắt mạng hoặc lỗi truyền tải sẽ rất cao.
Cấu trúc 1 trang tài liệu trong Lectora
-. 1 trang tài liệu trong Lectora được cấu thành bởi 1 hay nhiều nhân vật nằm xen kẽ lẫn nhau. 1 nhân vật sẽ xác định 1 nội dung chi tiết. Chẳng hạn có image để hiển thị 1 hình ảnh, có Audio để kết nối với file âm thanh, có Textbox cho phép nhâp nội dung văn bản…
Sau đây là danh sách các nhân vật của Lectora:

AddAction

Thiết lập các hoat động xảy ra trong công đoạn học.

Add Equation

Đánh các kí hiệu và công thức toán học vào tài liệu.

Add Menu

Thiết kế thực đơn các hoạt động của bài học.

Add External HTML

Đưa 1 trang web vào nội dung học tập, qua đấy HS có thể duyệt nội dung của website ngay trong bài học nhưng mà ko cần mở của số
khác.

Add Document

Đính kèm 1 file văn bản vào nội dung học tập.

Add Table of contents

Thiết lập bảng mục lục của tài liệu

Add Button

Thiết lập biểu trưng Điều khiển của tài liệu.

AddAudio

Thiết lập kết nối với file âm thanh trong bài học.

Add IPIX

Thiết lập kết nối với file hhih ảnh IP IX trong taằi học.

AddVideo

Thiết lập kết nối với file video trong bài học.

AddAnimation

Thiết lập kết nối với file hình ảnh động trong bài học.

Add image

Đưa 1 hình ảnh vào tài liệu.

Add Text block

Nhập văn bản thuần tuý vào nội dung tài liệu.

Add Question

Thiết lập câu hỏi và đáp án trong bài học.

Add Page

Thêm 1 trang mới của tài liệu.

Add Section

Thêm 1 mục mới của tài liệu.

Add Chapter

Thêm 1 chương mới của tài liệu.

Mode/preview

Xem bài học lúc kết nối các hiệu ứng.

Publish /Publish lớn CDROM

Xuất bản bài học ra đĩa CD.

Publish /Publish lớn HTML

Xuất bản bài học lên web dưới dạng file HTML.

Publish /Publish lớn SCORM

Xuất bài bài học ra file SCORM.

Thông thường 1 bài học trong Lectora có cấu trúc như sau:
– Phần đầu xác định những tiêu chí cần đạt được, các đề xuất đối với HS, các tri thức cần biết để có thể xong xuôi khóa học.
– Phần thứ 2 chứa đựng nội dung bài học, trong đấy có thể gồm các hoạt động như: các hoạt động đọc- giải đáp câu hỏi, xem các đoạn video mô phỏng, khắc phục các bài tập, các thao tác tiến hành… Mỗi hoạt động này sẽ được trình bày bởi 1 nhân vật có tính năng tương đương.
– Phần cuối là các bài tập dưới dạng các câu hỏi trắc nghiệm và nhiệm vụ ủy quyền HS tại nhà.
Chú ý rằng trong công đoạn dạy học online, GV ko trực tiếp gặp gỡ HS, vì thế chẳng thể tiến hành trực tiếp các thao tác giảng dạy thông thường như trên lớp. Do đấy, việc xây dựng nội dung giảng dạy online đề xuất GV phải xây dựng các kịch bản, các thao tác ngắn gọn, dễ hiểu, cuốn hút người học vào nội dung học tập 1 cách tự giác, hăng hái.
Để xuất bản nội dung khóa học, ngày nay Lectora sử dựng 3 loại định dạng file chính như sau:

Publish / Publish lớn CDROM

Các gói nội dung trong Lectora được lưu Lại trong folder CD ở folder hiện giờ với file chạy LectoraViewer.exe và toàn thể các file chương trình nguồn của bài học trong Lectora; Sau đấy copy toàn thể folder CD ra đĩa CDROM để luận bàn thông tin với GV và HS lúc chẳng thể kết nối internet.

Publish / Publish lớn SCORM

Gói nội dung được lưu lại dưới dạng 1 file nén zip, cho phép gói tất cả các trang được tạo ra cộng với 1 file IMSmanifest.xml để sử dụng với các hệ LMS tương hợp với SCORM. Tài liệu này hỗ trợ cho LMS những hướng dẫn hiển thị và cấu trúc gói nội dung.

Publish / Publish lớn HTML

Tạo ra 1 folder HTML ở folder hiện giờ chứa các trang HTML, hình ảnh và các style sheet nhu yếu để xuất bản gói nội dung lên web.

Các file Lectora sẽ được lưu với tên tương ứng ở hộp thoại New title name và lưu vào folder nhưng mà ta chọn lọc lúc khởi động ứng dụng Lectora ở hộp thoại choose thư mục. Các nội dung được tạo ra trong Lectora có thể được xuất bản thành các gói web để đưa lên web server, cũng như gói SCORM để phân phát đến các hệ LMS tương hợp với SCORM, 1 IMS Content Package, hoặc như là 1 trang web đơn để tiện in ấn.
1 số điểm cần xem xét lúc thiết kế giáo án điện tử như sau:
Về tiêu chí bài dạy, thời kì và các bước lên lớp vẫn phải bảo đảm nguyên lý và cách thức dạy học bộ môn. Giáo án điện tử chẳng thể thay thế giáo án truyền thống, chẳng thể thay thế toàn thể vai trò của GV nhưng mà chỉ là 1 loại hình thiết bị dạy học để góp phần tăng lên chất lượng dạy học.
Bảo đảm mọi đề xuất tiến hành nội dung và cách thức dạy học bộ môn thích hợp với tâm lí thế hệ, trình độ nhận thức của HS. Nội dung tuyển lựa tiếng nói trong trắng, dễ hiểu.
Có tính mở, phát huy tối đa tính hăng hái, thông minh của HS. Tạo sự tương tác giữa HS với máy tính.
Cần cân nhắc lúc sử dựng hệ thống dạy học đa công cụ cho các nội dung thích hợp, với thời kì rất giảm thiểu trong 1 tiết học (ko sử dựng trong toàn thể tiết học).
Các tri thức được đưa vào trình chiếu dưới dạng các trang slide, các đoạn Video, Audio phải được tuyển lựa chuẩn xác, dễ hiểu trình bày được lôgic cấu trúc của bài dạy bao gồm cả kênh hình, kênh chữ, kênh tiếng tạo điều kiện hăng hái hóa công đoạn nhận thức, công đoạn tư duy của HS tránh lạm dựng trình chiếu 1 chiều.
Mời độc giả cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục huấn luyện trong mục biểu mẫu nhé.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT1
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT2
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT3

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #module #THPT16


#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #module #THPT16

Vik News

Đại Bàng Xanh

Tôi là Đỗ Thủy đam mê sáng tạo viết Blog hàng ngày là những công việc mà tôi đang làm nó thực sự là những gì tôi yêu thích hãy theo dõi tôi để có những kiến thức bổ ích về xã hội ,cộng đồng và học tập.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button