Giáo Dục

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu mang đến dàn ý cụ thể, cùng 9 bài cảm nhận ngắn gọn, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài viết của mình thật hay. Nhờ đấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Đồng chí

Qua 9 bài cảm nhận Đồng đội, đã cho chúng ta hiểu thâm thúy hơn về tình đồng đội, tình đồng chí gắn bó, keo sơn. Tình đồng đội được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:

Dàn ý cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu

I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng đội.

II. Thân bài: phân tách cụ thể tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ

1. Cơ sở tạo nên tình đồng đội của người lính

a. Tình đồng đội của người lính bắt nguồn từ sự đồng nhất về tình cảnh xuất thân

– Ngay từ những câu thơ mở màn, tác giả đã lí giải cơ sở tạo nên tình đồng đội đượm đà, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mệnh:

“Quê hương tôi nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”

+ Giọng điệu rủ rỉ, tâm tư như lời kể chuyện

=> Các anh ra đi từ những miền quê đói nghèo, lam lũ – miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp mặt nhau ở tình yêu Non sông mập lao. Các anh là những người dân cày mặc áo lính – đấy là sự đồng cảm về giai cấp.

– Cũng như giọng thơ, tiếng nói thơ ở đây là tiếng nói của đời sống dân dã, mộc mạc:

“Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.

=> Tới từ mọi miền quốc gia, vốn là những người lạ lẫm, các anh đã cùng trong 1 hàng ngũ và trở thành thân quen.

b. Cùng chung mục tiêu, lí tưởng đấu tranh:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

– Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa biểu tượng => Tình đồng đội, đồng chí được tạo nên trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Non sông thân thương, các anh đã cùng dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong hàng ngũ đấu tranh để tiến hành nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

c. Cùng san sớt mọi gian khó, thiếu thốn

– Mối tính tri âm của những người bạn chí cốt được biểu thị bằng 1 hình ảnh chi tiết, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”.

=> Chính trong những ngày gian lao, các anh đã biến thành tri âm của nhau, để cùng chung nhau cái lạnh giá mùa đông, chia nhau cái gian khổ trong 1 cuộc sống đầy gian truân.

– Dòng thơ thứ 7 trong bài thơ “Đồng đội” là 1 điểm thông minh, 1 nét lạ mắt qua ngòi bút của Chính Hữu:

+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là 1 câu đặc thù gồm từ 2 âm tiết đồng hành dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi khẩn thiết, tạo 1 nút nhấn, lắng lại.

+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp tươi, là điểm tụ hội, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.

=> Dòng thơ thứ 7 có ý nghĩa như 1 bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ 2 của bài thơ, là điểm đặc sắc, là mạch xúc cảm chung cho toàn bài. Có thể nói, 2 tiếng “Đồng đội” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa cực kỳ thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng đội

a. Tình đồng đội của người lính Cách mệnh được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau:

– Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa mập, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trằn trọc.

– Hai chữ “chớ thây” => Thái độ dứt khoát của người ra đi lúc lí tưởng đã rõ ràng, mục tiêu đã chọn lọc:“Anh trai làng quyết đi làm thịt giặc lập công”.

– Hình ảnh “gian nhà ko” vừa gợi cái nghèo, cái xác xơ của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống vắng trong lòng đứa ở lại.

– “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhì, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và 2 hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt thâm thúy tâm cảnh, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của quốc gia.

b. Là đồng đội của nhau, họ cùng san sớt những gian khó, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân ko giày”.

=> Những cụ thể tả chân, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái tạo chân thật những gian khổ, khó khăn của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau phụ trách, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng chí đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi rạng ngời nụ cười và càng thương nhau hơn.

– Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách trình bày tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng chí, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng đội. Cái nắm tay đó còn là lời hẹn hứa hẹn lập công.

3. Biểu tượng của tình đồng đội

– Tình đồng chí trong bài “Đồng đội” được Chính Hữu trình bày thật đẹp qua những câu thơ cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo”.

– Đây là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ.

– Rừng hoang sương muối: gợi sự ác liệt, hà khắc của tự nhiên, của chiến tranh.

– “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:

+“Súng” và “trăng” – 2 hình ảnh tưởng như đối lập song lại hợp nhất hòa quyện – là rắn rỏi và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mộng mơ – là chất đấu tranh và chất trữ tình – là chiến sĩ và nhà thơ.

+ Hiếm thấy 1 hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.

+ Đây là 1 phát hiện, 1 thông minh bất thần về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần tăng lên trị giá bài thơ và biến thành đầu đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

III. Kết bài: khẳng định trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật qua đấy nếu cảm nhận của em về tác phẩm.

Cảm nhận Đồng đội ngắn gọn

Đồng đội là tiếng gọi thân yêu khẩn thiết, biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh quân nhân Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm thu được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với lời thơ chất phác, ngập tràn tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.

Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê nghèo không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng lời thơ thật xúc động:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau

Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “lạ lẫm” gặp nhau. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”, vì vậy ý thơ được nhấn mạnh, mở mang thêm. “Hai người” chi tiết quá. Đôi người là từng “đôi” 1 – nhiều người. Trong đơn vị quân đội đó, người nào cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người đó cùng nhau đấu tranh, cùng nhau chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm
Đồng đội”

Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhõm, rủ rỉ tâm tư, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng đội lại được tách ra làm câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó tác giả đã làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ Đồng đội – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. Đồng đội 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng đội.

Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, “Gian nhà ko chớ thây gió lung lay” cả chuyện “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”… Từ những lời tâm tư đó cho ta hiểu rằng: Các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng san sớt ngọt bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… dẫu trời có buốt giá thì mồm vẫn cười tươi. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương. Những người chiến sĩ biểu thị tình đồng đội là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý tưởng thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo

Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính mai phục chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính đấu tranh vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đây là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội đang nảy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thật lạ mắt gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.

Bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sự nói chung cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đấy hình thành sự thành công của tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời gian chống Pháp.

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội

Văn học là 1 bức tranh muôn màu, nó xuất hiện dưới ngòi bút tài giỏi của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn học ko bao giờ tìm tới những thứ xa xăm, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc nhưng tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm thật tình, những chủ đề gần gụi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ ko chỉ trình bày ý thức quật cường của dân tộc nhưng nó còn phả 1 luồng gió mới vào văn học đương thời. Hòa mình vào ko khí đó, Chính Hữu với “ Đồng đội” như 1 hiện tượng hoàn hảo về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng đội”, Chính Hữu đưa độc giả vào toàn cầu hiện thực nơi núi rừng biên thuỳ tưởng lạ lẫm mà thấm đẫm tình đồng chí bằng thứ văn học giản dị, mộc mạc.

Không thể phủ nhận rằng, để có được 2 chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả 1 lứa tuổi qua 2 cuộc kháng chiến trận kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mệnh như 1 tượng đài vĩnh cửu, 1 nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận ko bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tiếng tăm của nhiều lứa tuổi các nhà văn, thi sĩ. Và Chính Hữu là 1 trong số đấy.

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, 1 thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. “Đồng đội” là 1 trong những bài thơ điển hình nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân 5 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ngợi ca tình đồng đội cao cả và thiêng liêng, khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người dân cày mặc áo lính giữa thời khói lửa.

Với giọng thơ như 1 cách kể chuyện rủ rỉ, tâm tư cùng Ngòi bút tài giỏi, tiếng nói giản dị, đầy tính thiên nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để tạo nên nên tình đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Anh và tôi đều có xuất thân từ những người dân cày chất phác, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn chất liệu dân gian để nói về quê hương của mình cộng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy thật tình, chất thơ mộc mạc. Phcửa ải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là yếu tố, là bệ phóng cho tình đồng đội?.

“Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.

Cùng tình cảnh, cùng chung lý tưởng mập, các anh đã bước chân vào trục đường đầy gian truân mà cũng hết mực hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là 1 cái duyên để cho các anh gặp mặt, để cho những trái tim nồng thắm yêu nước có cơ hội tụ hội, đưa các anh từ những người dân cày chân lấm tay bùn lạ lẫm, chẳng phải thân quen thành những người bạn tri kỷ:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Những người dân cày mặc áo lính đó đấu tranh vì chính mình và sự nghiệp chung của quốc gia đã xóa nhòa mọi khoảng cách về ko gian, thời kì, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành binh. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi gian khổ, nguy khốn. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, ko chỉ gần nhau về ko gian địa lý nhưng còn là chung nghĩ suy, chung lý tưởng cách mệnh. Tố Hữu cũng đã nhắc đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc

Thương nhau chia củ sắn lùi
át cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Câu thơ 7, 8 rút ngắn với 2 từ “đồng đội” như nghẹn lại như cái choàng vai tin tưởng, như 1 dáng đứng vững chãi thu về 1 tâm điểm của sức mạnh niềm tin cứng rắn .Xúc động xen lẫn kiêu hãnh lúc nói về tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng đấu tranh những người dân cày nồng thắm lòng yêu nước, tha thiết mong 2 chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình lúc sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri kỷ, tình đồng đội.

Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, tình cảnh. Vì thế nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền phương mưa bom bão đạn đều có chung 2 chữ quê hương, từ đấy làm thắm đượm thêm tình đồng đội:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà ko chớ thây gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính……

Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất nghìn 5 văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian “Cây đa cũ, bến đò xưa… …”, được Chính Hữu sử dụng 1 cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền phương và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm 2 chữ “ Đồng đội” , là yếu tố góp phần làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.

Tình đồng đội, đồng chí trong thời gian kháng chiến chống Pháp như 1 nguồn cảm hứng dồi dào để các thi sĩ, nhà văn chắp bút. Và trong khó khăn, vẻ đẹp của tình người đó tỏa ra 1 nguồn sáng hơn bao giờ hết:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những cụ thể đầy tính chân thật. Đấy là áo rách, quần vá, chân ko giày. Câu thơ hiện lên bao sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nhắc đến căn bệnh này

Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi – anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm, san sớt của người lính sát cánh bên nhau:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân ko giày..
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Những câu thơ tưởng dường như là kể, là tả mà tới câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó ko còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đấy 1 chút ngượng ngùng, lề mề trong tình cảm chân thực của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi – anh”, “Quần – áo”, “Cười buốt giá – Chân ko giày”. Hình ảnh người lính- đồng đội được nâng dần lên từ sự gian lao thiếu thốn bao lăm thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu

Ba câu thơ cuối là 1 bức tranh hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất về hình ảnh người lính:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo

Trong bức tranh đó, nổi trội lên trên nền rừng hoang sương muối là sự liên kết của 3 hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó hình thành 1 quang cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực ác liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang sơ, hà khắc của thời tiết lúc phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi dao đâm vào da thịt, trong khi cái chết đang kế cận bên mình người lính vẫn thung dung, mặc nhiên cùng nhau “ chờ giặc đến”. Cách nói của Chính Hữu ko chỉ cho ta thấy rõ hơn tình cảnh của trận đấu nhưng còn sáng ngời ý thức đấu tranh của chú quân nhân cụ Hồ. Và trong ko gian đó, thi sĩ đã có 1 phát hiện rất thi vị:

“Đầu súng trăng treo”.

Đây có nhẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất lúc viết về anh quân nhân cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong 1 đêm khuya u tịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu trưng của trận đấu đấu khó khăn, hy sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu trưng của 1 sự thanh bình – điều nhưng những người lính đang mong mỏi hướng đến. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh đầy thi vị, trong trận đấu khó khăn, thậm chí phải hy sinh cả tính mệnh của mình cho nền độc lập của Non sông, họ vẫn mặc nhiên, sáng sủa, yêu đời. Họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Dù trong rừng hoang sương muối ban đêm và biết bao nguy hiểm, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở mang tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp tươi của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 hình ảnh hấp dẫn nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là 1 sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mệnh giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế tĩnh tâm, chủ động “chờ giặc đến”. Mọi gian khổ, khó khăn, ko khí căng thẳng của trận đánh đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung linh, diệu huyền của ánh trăng nơi rừng núi hoang vu, hiểm trở.

Cảm nhận về bài thơ “Đồng đội”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi 1 luồng gió nhẹ nhõm về tình đồng đội, đồng chí trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đầy gian khó. Với sự liên kết của văn pháp hiện thực và lãng mạn, tiếng nói bình dị, thiên nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để khiến cho những lời thơ trở thành thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của 1 ý thức “Quyết tử cho Non sông quyết sinh”.

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội ngắn gọn

Bài thơ Đồng đội như là lời chuyện trò tâm tư rủ rỉ của 2 người chiến sĩ trong 1 đêm rét chung chăn. Có 2 đối tượng trữ tình là và “tôi” với những nét riêng của từng người và những nét chung của cả 2 người. 1 điều thú vị là nếu đem thay tất cả những chỗ của “anh” bằng “tôi” (và tất nhiên, “tôi” lại được thay bằng “anh”) thì cả về vần lẫn nhịp lẫn nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như ko chỉnh sửa. Sự hoán vị đó tiến hành được dễ ợt chính bởi vì “anh” và “tôi” rất giống nhau, vì tác giả ko nhằm mục tiêu nói về nét riêng, nét cá thể, của “anh” và của “tòi”. Cái đích nhưng tác giả hướng đến là Đồng đội, là khuôn mặt ý thức của đội quân cách mệnh thời hiện giờ. Vì vậy nhưng lúc đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỷ, có người áo rách vai, có người quần vài mảnh vá, có bàn chân ko giày.

Những cụ thể thơ rất lựa chọn gợi nhớ ngay về 1 thời các chiến sĩ vừa rời luống cày, mảnh ruộng “áo vải chân ko đi lùng giặc đánh”. Nhưng bài thơ chẳng hề ngừng lại ở những nét vẻ ngoài của các chiến sĩ qua “anh” qua “tôi”, thi sĩ muốn qui nạp, muốn nói chung lên những nét chung nhất cho quê hương, làng mạc, anh và tôi, dần dần gần gụi nhau, thân thiện nhau, gắn bó với nhau và hòa lẫn trong nhau. Điều này thấy rõ trong cả cấu trúc từng câu thơ và cả đoạn thơ:

Quê hương anh…
Làng tôi…

Sự sóng đôi ở cả 2 câu thơ của anh và tôi dẫn tới sự gần gụi “anh với tôi” trong cùng 1 câu thơ, tiếp đấy là đôi người – thành 1 đôi, mà là “đôi người lạ lẫm” – sau đấy mới là “đôi tri kỷ”. Và rốt cuộc sau những gắn bó “súng bên súng đầu sát bên đầu” sau những “đôi tri âm” là 1 tình cảm mới mẻ nhất thiêng liêng nhất gắn bó tất cả mọi người ĐỒNG CHÍ. Hai từ “Đồng đội” mới mẻ đấy đã như là sự kết tinh, sự hội tụ những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con người. Đồng đội là tri kỷ, mà cao hơn tri kỷ, mới hơn tri kỷ vì nó là tình cảm của 1 đội quân số đông những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn đấu tranh của những người cách mệnh.

Đoạn 2 của bài thư lại quay trở về lại những cái nét riêng, những con người gắn bó với nhau bằng tình đồng đội. Đồng đội được xây dựng từ những con người của mọi miền quê, từ 1 làng nghèo “đất cày lên sỏi đá” của 1 vùng trung du hay miền núi, đến 1 vùng “nước mặn đồng chua” đồng bằng ven biển. Đồng đội được tạo nên khi mà kề vai sát cánh “súng bên súng đầu sát bên đầu”.

Đồng đội được thách thức bằng những thiếu thốn, bệnh tật (áo rách vai, quần vá, chân ko giày, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.)

Đồng đội được vun vén bởi tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp diễn những cụ thể không giống nhau để làm nổi trội ý thức đồng đội của những chiến sĩ, 1 lần nữa “anh” và “tôi” lại hòa lẫn vào khuôn mặt chung của đồng đội, đồng chí:

Miệng cười buốt giá,

Chân ko giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Những câu thơ ko rõ chủ thể này chính là nói về đồng đội – điểm sáng ngời trong tâm hồn các chiến sĩ vô danh. Chỉ 1 hành động tay nắm lấy bàn tay nhưng biết bao ý nghĩa. Tình cảm đồng đội là thế ấy, biểu hiện rất mộc mạc, ko ồn ã, mà lắng sâu thấm thía. Bàn tay nói lời yên lặng của sự kết đoàn, sự gắn bó, sự thông cảm, và cả niềm hẹn hứa hẹn lập công.

Những dòng thơ rốt cuộc như 1 tượng đài lừng lững cho tình cảm đồng đội thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của tự nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là 1 hình ảnh thực trong những đêm mai phục của tác giả, mà chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng đấu tranh của quân đội cách mệnh đã tạo cho hình ảnh đấy 1 vẻ đẹp nói chung, biểu tượng.

Cảm nhận bài thơ Đồng Chí cụ thể nhất

“Đồng đội” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người dân cày mặc áo lính trong những 5 đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lăng. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau thắng lợi Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua 1 hành trình nửa thế kỉ làm quyền quý 1 hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có 1 vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho độc giả trẻ hiện tại.

Bài thơ “Đồng đội” ngợi ca tình đồng chí khó khăn có nhau, vào tử sinh có nhau của các anh quân nhân Cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi quân nhân đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn thời 9 5 kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên 2 “khuôn mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như nhẫn tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tư của 1 tình bạn thân thiện:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, dễ thương như tâm hồn người trai cày ra trận đấu giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng đội sau này.

5 câu thơ tiếp theo nói lên 1 giai đoạn thương yêu: từ “đôi người lạ lẫm” rồi “thành đôi tri âm”, về sau kết thành “đồng đội”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, xúc cảm vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm – Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm
Đồng đội!”

“Súng bên súng” là cách nói súc tích, hình tượng: cùng chung lí tưởng đấu tranh; “anh với tôi” cùng ra trận đấu giặc để bảo vệ quốc gia quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn đạt tâm đầu ý hợp của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm 1 thời khó khăn. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri âm”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn đấu tranh thành tri âm, về sau biến thành đồng đội! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại 2 từ “đồng đội” làm diễn đạt niềm kiêu hãnh xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động lúc nghĩ về 1 tình bạn đẹp. Kiêu hãnh về mối tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng đấu tranh của những người binh nhị vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đấu giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri âm, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng nhưng ấm áp tình tri âm, tình đồng đội đó mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, ko bao giờ có thể quên:

“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét lúc đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…”
(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nhắc đến 2 người đồng đội cùng nhau 1 nỗi nhớ: nhớ ruộng rẫy, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng đượm đà 1 tình quê vơi đầy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân yêu của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu áp dụng, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang hôm sớm dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?

Hay “người ra lính” vẫn hôm sớm ấp ôm hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả 2 phía chân mây, tình yêu quê hương đã góp phần tạo nên tình đồng đội, làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thảm khốc thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ đó, trong bài thơ “Bao giờ quay về”, Hoàng Trung Thông viết:

“Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết lúc nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(…) Anh đi 9 đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”

7 câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những cụ thể rất thực phản ảnh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 5 bị thực dân Pháp cai trị, dân chúng ta đã quật khởi đứng lên giành lại đất nước. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… dân chúng ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lăng. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua vô vàn gian khổ: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc thang…. Người lính ra trận “áo vải chân ko đi lùng giặc chinh”, quần áo rách tơi tả, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân ko giày…”

Chữ “biết” trong đoạn thơ này tức là nếm trải, cùng chung chịu gian truân thách thức. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” hiện ra trong đoạn thơ như 1 sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng đội đượm đà cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” trình bày thâm thúy ý thức sáng sủa của 2 chiến sĩ, 2 đồng đội. Đoạn thơ được viết dưới bề ngoài liệt kê, xúc cảm từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng chí được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiện, mến thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để khích lệ nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thách thức, “đi đến và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ đánh dấu cảnh 2 người chiến sĩ – 2 đồng đội trong đấu tranh. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Cảnh tượng chiến trận là rừng hoang sương muối. Và, 1 đêm đông cực kỳ lạnh lẽo hoang sơ giữa núi rừng chiến khu. Trong khó khăn thảm khốc, trong căng thẳng “chờ giặc đến”, 2 chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đấy là 1 đêm trăng trên chiến khu, 1 tứ thơ đẹp bất thần hiện ra:

“Đầu súng trăng treo”.

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi mai phục giặc giữa 1 đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lửng lơ trên ko như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu trưng cho vẻ đẹp quốc gia yên bình. Súng mang ý nghĩa trận đấu đấu khó khăn hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh thơ mộng, nói lên trong đấu tranh khó khăn, anh quân nhân vẫn yêu đời, tình đồng đội thêm keo sơn gắn bó, họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 thông minh thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi nghìn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ kì ảo. Mượn trăng để tả cái tĩnh mịch của chiến trận, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc đến”. Mọi gian truân căng thẳng của trận đấu sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp diệu huyền, thơ mộng của vầng trăng, và chính đấy cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng đội, tình đấu tranh.

Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị lúc nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng lúc nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng đội của các anh – người lính binh nhị buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ súc tích, mộc mạc như ngôn ngữ của người lính trong hàn ôn, tâm tinh. Phương ngôn thành ngữ, ca dao được Chính Hữu áp dụng rất cởi mở, hình thành chất thơ dung dị, hồn nhiên, đặm đà. Sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

“Đồng đội” là bài thơ rất lạ mắt viết về anh quân nhân Cụ Hồ – người dân cày mặc áo lính, những người hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là 1 tượng đài chiến sĩ hoa lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

Cảm tưởng về bài Đồng đội đầy đủ

Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ông tham dự quân đội 5 1947 và mở đầu làm thơ, Chính Hữu viết ko nhiều mà có địa điểm rất xứng đáng trong nền thơ tiên tiến Việt Nam, điển hình là bài thơ ” Đồng đội” có mặt trên thị trường 5 1948 sau lúc Chính Hữu cùng đồng chí vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông 5 1947. Bài thơ đã nhắc đến đến 1 thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh quân nhân cụ Hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đấy là tình đồng đội.

Bài thơ gồm 2 mươi dòng thơ với tiếng nói bình dị giọng điệu rủ rỉ tâm tư xúc cảm dồn nén, ” Đồng đội” ngợi ca tình đồng đội khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của người lính anh quân nhân cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tới với 7 câu thơ đầu tác giả lý giải về cơ sở tạo nên tình đồng đội, trước nhất tình đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự đồng nhất về cảnh ngô xuất thân nghèo đói.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi đối ứng nhau như lời tâm tư, rủ rỉ về quê hương anh quân nhân. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo đói là nơi” nước mặn đồng chua”, ” đất cày lên sỏi đá”, mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê nơi chôn rau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị chất thơ mộc mạc dễ thương như tâm hồn người trai cày đánh giặc.

Chung hoàn cảnh xuất thân những người lính còn chung lý tưởng đấu tranh và độc lập tự do của Tổ Quốc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Chính điều đấy đã khiến họ từ những người lạ lẫm trở thành thân quen với nhau và trong đội ngũ quân đội cách mệnh.

“Tôi với anh đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”

Đặc thù tình đồng đội được nảy nở và kết thành bền chặt trong sự chan hòa, san sớt gian khó cũng như thú vui trong cuộc đời người lính.

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”

Trong những đêm trường gió lạnh, những người lính cùng đắp chung chăn, có thể hàn ôn cùng nhau nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, chính vì thế từ những người lạ lẫm họ đã biến thành tri âm.

Sau 6 câu thơ đầu tác giả hạ 1 dòng đặc thù : ” Đồng đội! ” chỉ có 2 chữ và 1 dấu chấm than mà ý nghĩa cực kỳ hàm xúc, nó tạo thành 1 nốt nhấn, nó vang lên như 1 tiếng gọi khẩn thiết, xúc động từ đáy lòng, đây là tình cảm được kết tinh từ mọi xúc cảm, là cao độ của tình bạn, tình người, bắt nguồn từ những tình cảm mang tính truyền thống, cùng lúc cũng là sự gắn kết của bài thơ.

Mười 2 câu thơ tiếp theo là những biểu thị xúc động của tình đồng đội và sức mạnh của tình cảm đó ở người lính, tình đồng đội trước nhất là sự thông cảm sâu sa tâm sự nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà ko chớ thây gió lung lay”

Khi tấm chăn chung đắp lại, có bao lăm hàn ôn của người lính được mở ra, họ kể cho nhau nghe chuyện ruộng lương, nhà cửa, người nhà… đấy là những hình ảnh cực kỳ gắn bó với người lính.

Đằng sau thái độ dứt khoát ra đi đó những người lính vẫn gắn bó với quê hương:

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính

Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hoán dụ chỉ những đứa ở hậu phương, là người mẹ già, người vợ, con thơ đang dõi theo, đang nhớ đến người trai cày ra trận, cũng có thể nói đây là nỗi nhớ của người lính đang ấp ôm hình bóng quê hương, bởi những gì giản dị gần gụi nhất là những thứ dễ gợi nhớ gợi thương nhất.

Những dòng thơ tiếp theo vẫn trình bày tình đồng đội 1 cách cảm động, đồng đội đấy là cùng nhau san sớt những thiếu thốn gian khó của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Tới đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những cụ thể chân thật, đấy là chiếc áo rách, quần vá và đôi chân ko giày, đấy còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. tất cả làm nổi trội ko gian thiếu thốn của người lính. Đây cũng là những gian khổ chung của quân và dân ta trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà điều chủ công nhưng Chính Hữu muốn nói ở đây không hề là cái khổ nhưng là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối ứng nhau, cùng với các từ ” tôi” “anh” cùng hiện ra đã góp phần diễn đạt sự san sớt, sự giống nhau trong mọi hoàn cảnh của người lính.

Khó khăn khó khăn thế mà họ vẫn sáng ngời nụ cười sáng sủa” mồm cười buốt giá” và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương ” thương nhau… tay”, hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị mà cực kỳ gợi cảm, nó vừa trình bày tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh của tình cảm đó, hình như chỉ bằng 1 cử chỉ ” tay nắm bàn tay” nhưng người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.

Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng đẹp của cuộc đời người lính:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo”

Trong bức tranh, nổi trội trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là 3 hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng… Ba hình ảnh này đã hình thành 1 bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước nhất tính hiện thực được trình bày ở ko gian và cảnh huống chi tiết, thời kì: đêm nay, ko gian: rừng hoang sương muối, còn cảnh huống là tình cảnh những người lính: đứng canh bên nhau chờ giặc đến, tất cả đều trình bày sự ác liệt của chiến tranh, chẳng những phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi kim trâm vào da, thịt nhưng cái chết còn dình dập bên mình bởi có thể trong giây khắc nữa thôi quân địch sẽ nổ súng và biết đâu 1 trong số họ sẽ ngã xuống, mà tình đồng chí đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi gian khổ khó khăn.

Như vậy, bằng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn không giống nhau, tiếng nói cô đọng, hình ảnh thơ giản ị, chân thật vừa mang ý nghĩa biểu trưng, bài thơ đồng đội của Chính Hữu đã trình bày 1 cách xúc động tình đồng đội đồng chí sâu nặng đượm đà của người lính anh quân nhân cụ hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, họ chính là những con người cao hấp dẫn nhất, điển hình cho chủ nghĩa người hùng cách mệnh trong thời đại Hồ Chí Minh.

Cảm nhận bài thơ Đồng Chí hay nhất

Đồng đội là 1 bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những cụ thể, những hình ảnh cực kỳ chân thực, chi tiết nhưng đầy tính sàng lọc, nói chung, bài thơ đã trình bày 1 cách cảm động tình đồng đội gắn bó giữa những người dân cày mặc áo lính, cùng đấu tranh gìn giữ độc lập tự do của Non sông.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng đội tăng trưởng quay quanh mối quan hệ giữa các đối tượng tôi và anh. Ở đây, thi sĩ đã hóa thân vào các đối tượng trữ tình cũng là những đồng chí thân thiện với mình để nói lên những tình cảnh, biểu thị những tâm cảnh, tình cảm của họ.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ khi mở màn. Họ đều là những người dân cày mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn khó nhọc, gian truân. Những con người khổ nghèo đó vừa được Cách mệnh giải phóng và giờ đây gắn bó đượm đà vì mục tiêu của trận đấu đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mệnh giữa những người dân cày “tứ phương” này cũng được Hồng Nguyên trình bày 1 cách hồn nhiên trong phần mở màn bài Nhớ:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ phương
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi 1, 2
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến…

Từ “đôi người lạ lẫm” tới “thành đôi tri âm”, từ “chẳng hứa hẹn quen nhau” tới “đêm rét chung chăn” đấy hình như là sự gặp mặt, gắn bó ngẫu nhiên mà thực lại rất thiên nhiên và dĩ nhiên bởi những con người này cùng đấu tranh, hi sinh vì 1 lí tưởng cao cả. Hai câu thơ nhưng chứa đựng, kết hợp được nhiều hình ảnh sinh động:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri âm

Chính Hữu đã dùng 1 từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn đạt 1 tình cảm rất mới. Chữ “tri âm” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri âm này là tình đồng đội. Chính vì vậy, từ “đồng đội” được tác giả được tác giả tách riêng thành 1 dòng thơ. Đây là cụ thể nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết 2 phần của bài thơ.

Có thể xem dòng thơ cực kỳ ngắn này là 1 tiếng gọi khẩn thiết, nghiêm trang từ đáy lòng những người dân cày mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong 1 quan hệ mới (Sau chữ “đồng đội” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đấy, cần trả nó về tình cảnh lịch sử chi tiết. Trước Cách mệnh thành công ở thời gian tỉnh ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng kết đoàn hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những 5 đầu kháng chiến gian truân lúc toàn dân đang nhất loạt đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà cảm tử cho Non sông quyết sinh” ở những 5 tháng, những thời đIểm đó, nghĩa đồng bào, đồng đội thật thiêng liêng và cực kỳ được trân trọng (Chữ “đồng đội” chúng ta dùng hiện giờ hẳn khác). Thuộc tính thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người dân cày vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mệnh giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì vậy, chúng ta thêm hiểu tại sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng đội nhưng ko lấy 1 cái tên khác, chả hạn “đồng chí”. Quả thật, chữ “đồng đội” hàm nghĩa cao rộng hơn, nhưng cũng sâu hơn. Nghĩa đồng đội, 1 mặt, là cơ sở, là nền móng; mặt khác, cũng là then chốt, là thực chất của tình đồng chí. Về cuối cuộc kháng chiến 9 5, lúc chứng kiến chủ nghĩa người hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, chi tiết thêm tình đồng chí:

5 mươi 6 ngày đêm bom gầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng chí
Đồng chí ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau 1 trưa nắng, 1 chiều mưa
Chia khắp anh em 1 mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong hào chiến đấu chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…
(Giá từng thước đất)

Đấy là 1 bước chi tiết hóa tình đồng đội. Còn khi này (1948) ở buổi đầu kháng chiến cái cần nhấn mạnh là sự , là sự cùng chí hướng trong thách thức gian truân. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành 1 dòng thơ của từ “đồng đội” mang ý nghĩa đó.

Vừa dồn tụ xúc cảm ở 6 dòng thơ trước, dòng thơ chỉ 1 từ này cùng lúc vào vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các đối tượng trữ tình (tôi và anh) từ “đồng đội” còn như khắc ấn 1 định nghĩa mới mẻ nhưng cả phần sau của bài thơ là sự vỡ vạc, sự nhận thức nhau rõ hơn để thông cảm, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng đội đó là gửi lại ruộng rẫy, từ giã giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” gìn giữ độc lập tự do của quốc gia. Đồng đội đó là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng đội đó là sự sẻ chia và khích lệ nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân ko giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Tình đồng đội đượm đà làm cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những cụ thể bé nhất của đời sống. Điều đáng để mắt là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đấy mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu tới cuối bài Đồng đội, trong cặp đối tượng trữ tình, bao giờ anh cũng hiện ra trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt tiếng nói đó phải chăng phản ảnh 1 nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm thâm thúy giữa những người cùng hoàn cảnh, cùng bổn phận.

Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng khó khăn, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, đó mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mệnh. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu 1 cụ thể cực kỳ chi tiết. Từng cụ thể cô gọn đó cứ tuần tự khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tư, cảm xúc ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Nghe đâu đây là cao trào của xúc cảm mến thương trong người chiến sĩ. Thương nhau cực kỳ trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng rắn rỏi, nghị lực cực kỳ bởi cử chỉ đó chỉ có lúc những người chiến sĩ đã tinh thần đầy đủ về tình cảnh của quốc gia kháng chiến, về bổn phận cao cả của mình. Cử chỉ đó hình như chứa đựng sự tự tinh thần, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và căn dặn nhau. Tình cảm ko xốc nổi nhưng đằm sâu.

Chính giai đoạn nhận thức rõ về tình đồng đội, chính bước tăng trưởng cao của tình mến thương lẫn nhau như trên đã dẫn tới đoạn xong xuôi lạ mắt:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ nhưng nói được rất nhiều điều. Đấy là tình cảnh sẵn sàng đấu tranh đặc điểm ko gian và thời kì: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đấy là tình đồng đội keo sơn trong khó khăn, là ý thức chuẩn bị vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Đấy là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của trận đấu đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

Không phải trùng hợp nhưng sau này Chính Hữu đặt tên cho 1 tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không hề thiên nhiên nhưng trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội dân chúng thường xuất hiện ảnh ảnh này. Nhà thơ đã thông minh được 1 hình ảnh thật lạ mắt, giàu sức nói chung. Đầu súng trình bày của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo hình ảnh của tự nhiên trong mát, của cuộc sống yên bình. Sự liên kết thiên nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trắng trong,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của trận đấu tranh yêu nước. Chúng ta bền gan đấu tranh, khó khăn hi sinh chính vì vầng trăng đó, vì cuộc sống yên bình. Hình ảnh và nhịp độ thơ này lửng lơ, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có khó khăn mà cũng có thú vui, vừa là thực vừa mang tính biểu trưng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mệnh đặm đà thật khó phân tách hết bằng lời.

Nhanh chóng vượt ra khỏi những xúc cảm lạc điệu buổi đầu, tới Đồng đội, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp 1 bài thơ hoàn hảo về người chiến sĩ quân đội dân chúng Việt Nam. Giả dụ trước đấy chưa đầy 1 5, anh quân nhân kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giày vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” ngày giờ đây anh hiện ra trong Đồng đội với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân ko giày và với tâm hồn mộc mạc, thắm thiết, đầy yêu thương trong khó khăn. Đồng đội cũng trình bày rõ cá tính thơ lạ mắt của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng cụ thể, từng hình ảnh để vừa chi tiết, vừa giàu tính nói chung, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa 1 tâm hồn tha thiết, da diết tự bên trong.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng Chí

“Đồng đội”! Ôi tiếng gọi sao nhưng thân yêu khẩn thiết quá. Nó biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những 5 1948 của thời gian kháng Pháp. Cảm thu được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – người chiến sĩ cách mệnh đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.

Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn của thời gian kháng chiến 9 5. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê heo hút không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng những lời thơ thật cảm động:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.

Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì dị ở những người chiến sĩ. Đấy là sự tăng trưởng của tình cảm cách mệnh trong quân đội ta. Từ những con người rất “lạ lẫm” trong đời sống lại biến thành những đồng đội rất thân yêu trong đấu tranh. Nhà thơ đã chọn lọc những cụ thể, những hình ảnh thơ rất chân thật để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo đói “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “lạ lẫm”. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”. “Đôi” là chỉ 2 nhân vật cùng đi với nhau. “Đôi người lạ lẫm” tức là 2 người cùng đi với nhau nhưng mà là lạ lẫm. Vì vậy ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời cách biệt, những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên cả 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người lạ lẫm đó đã cùng nhau đấu tranh, cùng chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy, họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm.
Đồng đội!

Câu thơ vừa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả chân những giờ khắc bên nhau cùng đấu tranh cùng lúc hình ảnh đó còn biểu tượng cho sự nghiệp đấu tranh chung, lí tưởng cách mệnh chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người lạ lẫm” đó đã nảy nở 1 tình cảm mới lúc họ cùng đấu tranh, cùng 1 lý tưởng mập lao. Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhõm bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng đội” lại được tách thành 1 câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó, tác giả làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ: “Đồng đội” – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. “ Đồng đội”, 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng đội!”.

Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng rẫy anh gởi bạn thân cày”, “gian nhà ko, chớ thây gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tư đó, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi cùng chịu với nhau “từng cơn ớn lạnh”, những khi “ rét run người vừng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu “ áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì mồm vẫn cười tươi. Bằng những cụ thể rất thực, thi sĩ đã mô tả rõ nét cuộc sống đấu tranh khó khăn và sự gắn bó của tình đồng chí keo sơn. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương, những người chiến sĩ hiểu hiện tình đồng đội là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội. Đoạn thơ với nhiều nét tả chân cụ thể nhưng ko trần truồng, vẫn gợi cảm nhớ hình ảnh “anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” mà ko biết làm sao, chỉ biết âm thầm “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu thị tình cảm đáng quý như thế.

Mối tình đồng đội lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo.

Câu thơ vừa tả chân vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính đấu tranh lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đầy là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội, đang nẩy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thơ thật lạ mắt, gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.

Toàn bộ bài thơ bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sức nói chung cao. Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây, thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống trong đời thường những người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đấy hình thành sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong công đoạn chống Pháp.

Đồng đội! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những xúc cảm dạt dào. Chúng ta đã cảm thu được mối tình đồng đội đặm đà đó qua những lời thơ nhẹ nhõm khẩn thiết như bài hát tâm tư của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã chiến thắng vang dội, trang sử vàng đã sang qua bao lăm công đoạn mới, thế mà mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng đội ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh quân nhân Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân yêu trong những lời thơ của Chính Hữu.

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu

Đồng đội của thi sĩ Chính Hữu là 1 bài thơ hay viết về người lính.Với giọng thơ bình dị, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu được phác họa đầy tính chân thật giản dị, mà vẫn toát lên vẻ bi hùng, hào hùng của những người người hùng của dân tộc.

Bài thơ ngợi ca tình cảm đồng đội, đồng chí trong khó khăn có nhau san sớt với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm nom nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi gian khổ thách thức có thể xảy ra mà nhờ có tình cảm đồng đội nhưng họ ko cảm thấy độc thân trống vắng.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Trong 2 câu thơ này hình ảnh những người lính được đến từ những vùng quê nghèo không giống nhau, 4 phương trời chẳng hứa hẹn nhưng quen. Họ cùng tụ hội ở đây dưới ngọn cờ của cách mệnh, bởi tình yêu quê hương quốc gia. Họ có chung 1 lý tưởng lớn lao muốn giải phóng quê hương khỏi bóng quân địch.

Từ những con người hoàn toàn lạ lẫm mà họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng dưới lá cờ của non sông. Họ đến nơi đây cùng chung 1 mơ ước, 1 ý chí, ý thức, 1 tiêu chí cố gắng. Đấy chính là hướng nòng súng của mình đến những đối phương để bảo vệ quê hương và những người nhà yêu nơi quê nhà đang chìm trong khó khăn, lam lũ bởi sự giày xéo của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu đến, bóc lột cai trị quốc gia ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm bầy tớ, bắt quốc gia ta phải sống cảnh thực dân địa lầm than.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm
Đồng đội!”

Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, trình bày họ có chung 1 tiêu chí đấu tranh, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có 1 đối phương chung của toàn dân tộc. Những người lính thân thương của chúng ta ra đi lúc tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão mập lao, tình yêu quê hương phệ mập. Họ chuẩn bị cống hiến trái tim và thân xác để bảo vệ dân tộc.

Tình yêu quê hương quốc gia mập hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn toan lo trằn trọc, mà họ cố gắng ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương quốc gia.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân ko giày…”

Những người dân cày từ khắp các vùng miền của non sông, ngôn ngữ không giống nhau, phong tục tập quán không giống nhau, tình cảnh sống không giống nhau. Nhưng tất cả đã góp sức tuổi xanh, sức lực trí óc của mình để bảo vệ cho được mảnh đất quê hương.

Họ ra đi lúc tuổi đời còn đang xuân xanh phất phới, tâm hồn còn đang ngập tràn tâm huyết, dòng máu đang chảy trong người họ ấm hot những mơ ước khao khát của tuổi xanh.Các anh ra đi có những người con chưa 1 lần cầm tay cô gái mình thích thú, chưa 1 lần rung động. Nhưng lúc non sông cần thì tất cả chuẩn bị lên đường đấu tranh.

Họ ra đi tương tự, ko tiếc tuổi xuân của mình chỉ với 1 mơ ước, 1 ước vọng bảo vệ cho được non sông thiêng liêng, với ý thức “cảm tử cho non sông quyết sinh”. Những hy sinh khó khăn của các anh, thiên hạ sau vẫn còn ghi nhớ mãi, công huân trời biển của các anh ko khoảnh khắc nào non sông quên ơn.

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo”.

Những câu thơ này trình bày sự tinh tế của Chính Hữu lúc tác giả đã sử dụng hình ảnh cực kỳ nghệ thuật “đầu súng trăng treo”. Chính Hữu đã tinh tế lúc vẽ lên 1 bức tranh giữa 1 cái cực kỳ lãng mạn đậm chất thơ đấy chính là ánh trăng, với 1 thứ biểu tượng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh cực kỳ sinh động, tươi đẹp trình bày tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ. Đấy là hình ảnh thơ mộng nói lên ý thức anh dũng của người lính, trong khó khăn mà họ vẫn yêu đời, vẫn lãng mạn

Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp bi hùng, người hùng vừa trình bày sự giản dị, mộc mạc của người chiến sĩ trong chiến tranh. Tác giả Chính Hữu đã phác họa lên hình ảnh người lính với tâm hồn thanh cao, lãng mạn, mà cũng đầy chất người hùng, bi hùng.

Cảm tưởng về bài thơ Đồng đội

Nhắc đến thơ ca thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp chẳng thể ko nhắc đến Đồng đội của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc nhưng thâm thúy của những người lính cách mệnh trong những ngày tháng kháng chiến gian khó.

Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: “Trong bài thơ Đồng đội, tôi muốn nhấn mạnh tới tình đồng chí. Suốt cả trận đấu đấu, chỉ có 1 chỗ dựa hình như là độc nhất vô nhị để còn đó, để đấu tranh là tình đồng đội, tình đồng chí. Đồng đội ở đây là tình đồng chí. Không có đồng chí, tôi chẳng thể nào kết thúc được phận sự, ko có đồng chí, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng đội là lời hàn ôn viết ra để tặng đồng chí, tặng người bạn dân cày của mình.”

Thật vậy, ko gian trữ tình trong Đồng đội giá buốt nhưng ko lạnh lẽo. Hơi ấm tỏa ra từ tỉnh người, từ tình tri âm, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong đội ngũ cách mệnh, đấu tranh cho độc lập, tự do của Non sông, người lính vượt lên trên mọi gian lao bằng sự sẻ chia, đồng tâm hợp lực. Họ sống trong tình đồng chí, nhờ đồng chí, vì đồng chí.

Những người đồng chí đó thường là những người “dân cày mặc áo lính”. Điểm giống nhau về hoàn cảnh xuất thân giúp họ có thể dễ ợt gần gụi, đồng cảm với nhau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người lạ lẫm
Từ phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.

Anh và tôi” từ những vùng quê không giống nhau, chỉ giống nhau cái nghèo đói của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người lạ lẫm, từ 2. phương trời lạ lẫm biến thành tri âm:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm

Những người “dân cày mặc áo lính” đó gặp nhau trong trận đấu đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong đội ngũ những “người lính Cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách lạ lẫm về ko gian nơi sinh sống của mỗi người. “Súng bên súng” là chung đấu tranh, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: ko chỉ là gần nhau về ko gian nhưng còn chung nhau ý tưởng, lí tưởng” (Trần Đình Sử, Đọc văn chương văn, Sdđ). Tới lúc đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực thụ là anh em 1 nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để trình bày tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gụi, sẻ chia về cái thân mật ấm áp ko gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng đội đặt bắt nguồn từ cơ sở 1 tình tri âm thâm thúy, từ những cái chung giữa “anh” và “tử”.

Câu thơ thứ 7 chỉ gồm 2 tiếng: Đồng đội. Nếu ngoại trừ đầu đề thì đây là lần độc nhất vô nhị 2 tiếng Đồng đội hiện ra trong bài thơ, làm thành riêng 1 câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó ghi lại 1 mốc mới trong mạch xúc cảm và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. 6 câu thơ đầu là tình đồng chí, tri âm, tới đây được nâng lên thành tỉnh đồng đội thiêng liêng. Đồng đội tức là ko chỉ có sự gắn bó thân mật nhưng còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng đội – chiến sĩ hòa mình trong mối giao cảm mập lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng đội thì tức là cùng lúc với nhân cách họ là những con người chi tiết, là những cá thể, họ còn có nhân cách bộ đội, nhân cách của “1 cây” trong sự giao ước của “rừng cây”, tức là từng người ko chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chỉ vừa giản dị, thân mặt lại vừa cao quý, mập lao là vì vậy.

Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những cụ thể, hình ảnh chi tiết tác giả đã trình bày tình cảm thâm thúy của những người đồng đội. Trước hết, họ cùng chung 1 nỗi nhớ quê hương:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà ko, chớ thây gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Trong nỗi nhớ quê hương đó có nỗi nhớ ruộng rẫy, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng rẫy cũng như nhớ tay người nào cày xới, ngôi nhà nhớ người trong khi gió lung lay và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ 2 chiều. Nói. “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” cũng là giãi bày nỗi nhớ cồn các về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn túc trực, đậm sâu trong những người đồng đội, cũng là sự đồng cảm của những người đồng chí.

Người lính xuất hiện cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi đất nước song tình quê hương trong mỗi người ko lúc “nào nhạt phai. Và kế bên hình bóng quê hương, điểm tựa kiên cố cho người lính, là đồng chí:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân ko giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng đội trong thời khắc thực tại, lúc họ đang làm nhiệm vụ đấu tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trăng treo.

Có thể xem đây là 1 trong những hình ảnh thơ hấp dẫn nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra 1 bức tranh vừa mang chất chân thật của văn pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của văn pháp lãng mạn.

Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính – khẩu súng – vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong 1 sự liên kết bất thần, đấu súng và vầng trăng như ko còn khoảng cách xa về ko gian, để thành:

“Đầu súng trăng treo”.

Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong mô tả là lãng mạn. Hình ảnh súng biểu tượng cho hành động đấu tranh, ý thức quyết đấu vì quốc gia. Trăng biểu tượng cho cái đẹp thanh bình, thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái. quát về tư thế chủ động, tự tin trong đấu tranh. Nói rộng ra, 2 hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau hình thành biểu trưng về tình thân, ý chí gang thép nhưng bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam, chung nhau hoàn cảnh, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính – những người đồng đội sống, đấu tranh vì sự nghiệp chung của dân tộc, Bài thơ Đồng đội đã trình bày rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và đấu tranh cho hạnh phúc và tự do.

.

Xem thêm thông tin Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu mang đến dàn ý cụ thể, cùng 9 bài cảm nhận ngắn gọn, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài viết của mình thật hay. Nhờ đấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Qua 9 bài cảm nhận Đồng đội, đã cho chúng ta hiểu thâm thúy hơn về tình đồng đội, tình đồng chí gắn bó, keo sơn. Tình đồng đội được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:
Dàn ý cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu
I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng đội.
II. Thân bài: phân tách cụ thể tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ
1. Cơ sở tạo nên tình đồng đội của người lính
a. Tình đồng đội của người lính bắt nguồn từ sự đồng nhất về tình cảnh xuất thân
– Ngay từ những câu thơ mở màn, tác giả đã lí giải cơ sở tạo nên tình đồng đội đượm đà, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mệnh:
“Quê hương tôi nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”
+ Giọng điệu rủ rỉ, tâm tư như lời kể chuyện
=> Các anh ra đi từ những miền quê đói nghèo, lam lũ – miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp mặt nhau ở tình yêu Non sông mập lao. Các anh là những người dân cày mặc áo lính – đấy là sự đồng cảm về giai cấp.
– Cũng như giọng thơ, tiếng nói thơ ở đây là tiếng nói của đời sống dân dã, mộc mạc:
“Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.
=> Tới từ mọi miền quốc gia, vốn là những người lạ lẫm, các anh đã cùng trong 1 hàng ngũ và trở thành thân quen.
b. Cùng chung mục tiêu, lí tưởng đấu tranh:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
– Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa biểu tượng => Tình đồng đội, đồng chí được tạo nên trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Non sông thân thương, các anh đã cùng dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong hàng ngũ đấu tranh để tiến hành nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c. Cùng san sớt mọi gian khó, thiếu thốn
– Mối tính tri âm của những người bạn chí cốt được biểu thị bằng 1 hình ảnh chi tiết, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”.
=> Chính trong những ngày gian lao, các anh đã biến thành tri âm của nhau, để cùng chung nhau cái lạnh giá mùa đông, chia nhau cái gian khổ trong 1 cuộc sống đầy gian truân.
– Dòng thơ thứ 7 trong bài thơ “Đồng đội” là 1 điểm thông minh, 1 nét lạ mắt qua ngòi bút của Chính Hữu:
+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là 1 câu đặc thù gồm từ 2 âm tiết đồng hành dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi khẩn thiết, tạo 1 nút nhấn, lắng lại.
+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp tươi, là điểm tụ hội, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.
=> Dòng thơ thứ 7 có ý nghĩa như 1 bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ 2 của bài thơ, là điểm đặc sắc, là mạch xúc cảm chung cho toàn bài. Có thể nói, 2 tiếng “Đồng đội” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa cực kỳ thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng đội
a. Tình đồng đội của người lính Cách mệnh được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau:
– Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa mập, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trằn trọc.
– Hai chữ “chớ thây” => Thái độ dứt khoát của người ra đi lúc lí tưởng đã rõ ràng, mục tiêu đã chọn lọc:“Anh trai làng quyết đi làm thịt giặc lập công”.
– Hình ảnh “gian nhà ko” vừa gợi cái nghèo, cái xác xơ của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống vắng trong lòng đứa ở lại.
– “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhì, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và 2 hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt thâm thúy tâm cảnh, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của quốc gia.
b. Là đồng đội của nhau, họ cùng san sớt những gian khó, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ
“Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giày”.
=> Những cụ thể tả chân, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái tạo chân thật những gian khổ, khó khăn của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau phụ trách, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng chí đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi rạng ngời nụ cười và càng thương nhau hơn.
– Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách trình bày tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng chí, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng đội. Cái nắm tay đó còn là lời hẹn hứa hẹn lập công.
3. Biểu tượng của tình đồng đội
– Tình đồng chí trong bài “Đồng đội” được Chính Hữu trình bày thật đẹp qua những câu thơ cuối bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.
– Đây là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ.
– Rừng hoang sương muối: gợi sự ác liệt, hà khắc của tự nhiên, của chiến tranh.
– “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:
+“Súng” và “trăng” – 2 hình ảnh tưởng như đối lập song lại hợp nhất hòa quyện – là rắn rỏi và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mộng mơ – là chất đấu tranh và chất trữ tình – là chiến sĩ và nhà thơ.
+ Hiếm thấy 1 hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.
+ Đây là 1 phát hiện, 1 thông minh bất thần về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần tăng lên trị giá bài thơ và biến thành đầu đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
III. Kết bài: khẳng định trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật qua đấy nếu cảm nhận của em về tác phẩm.
Cảm nhận Đồng đội ngắn gọn
Đồng đội là tiếng gọi thân yêu khẩn thiết, biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh quân nhân Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm thu được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với lời thơ chất phác, ngập tràn tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.
Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê nghèo không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng lời thơ thật xúc động:
Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đáAnh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau
Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “lạ lẫm” gặp nhau. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”, vì vậy ý thơ được nhấn mạnh, mở mang thêm. “Hai người” chi tiết quá. Đôi người là từng “đôi” 1 – nhiều người. Trong đơn vị quân đội đó, người nào cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người đó cùng nhau đấu tranh, cùng nhau chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầuĐêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí”
Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhõm, rủ rỉ tâm tư, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng đội lại được tách ra làm câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó tác giả đã làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ Đồng đội – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. Đồng đội 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng đội.
Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, “Gian nhà ko chớ thây gió lung lay” cả chuyện “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”… Từ những lời tâm tư đó cho ta hiểu rằng: Các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng san sớt ngọt bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… dẫu trời có buốt giá thì mồm vẫn cười tươi. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương. Những người chiến sĩ biểu thị tình đồng đội là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý tưởng thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính mai phục chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính đấu tranh vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đây là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội đang nảy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thật lạ mắt gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.
Bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sự nói chung cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đấy hình thành sự thành công của tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời gian chống Pháp.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội
Văn học là 1 bức tranh muôn màu, nó xuất hiện dưới ngòi bút tài giỏi của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn học ko bao giờ tìm tới những thứ xa xăm, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc nhưng tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm thật tình, những chủ đề gần gụi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ ko chỉ trình bày ý thức quật cường của dân tộc nhưng nó còn phả 1 luồng gió mới vào văn học đương thời. Hòa mình vào ko khí đó, Chính Hữu với “ Đồng đội” như 1 hiện tượng hoàn hảo về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng đội”, Chính Hữu đưa độc giả vào toàn cầu hiện thực nơi núi rừng biên thuỳ tưởng lạ lẫm mà thấm đẫm tình đồng chí bằng thứ văn học giản dị, mộc mạc.
Không thể phủ nhận rằng, để có được 2 chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả 1 lứa tuổi qua 2 cuộc kháng chiến trận kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mệnh như 1 tượng đài vĩnh cửu, 1 nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận ko bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tiếng tăm của nhiều lứa tuổi các nhà văn, thi sĩ. Và Chính Hữu là 1 trong số đấy.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, 1 thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. “Đồng đội” là 1 trong những bài thơ điển hình nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân 5 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ngợi ca tình đồng đội cao cả và thiêng liêng, khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người dân cày mặc áo lính giữa thời khói lửa.
Với giọng thơ như 1 cách kể chuyện rủ rỉ, tâm tư cùng Ngòi bút tài giỏi, tiếng nói giản dị, đầy tính thiên nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để tạo nên nên tình đồng đội:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Anh và tôi đều có xuất thân từ những người dân cày chất phác, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn chất liệu dân gian để nói về quê hương của mình cộng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy thật tình, chất thơ mộc mạc. Phcửa ải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là yếu tố, là bệ phóng cho tình đồng đội?.
“Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.
Cùng tình cảnh, cùng chung lý tưởng mập, các anh đã bước chân vào trục đường đầy gian truân mà cũng hết mực hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là 1 cái duyên để cho các anh gặp mặt, để cho những trái tim nồng thắm yêu nước có cơ hội tụ hội, đưa các anh từ những người dân cày chân lấm tay bùn lạ lẫm, chẳng phải thân quen thành những người bạn tri kỷ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Những người dân cày mặc áo lính đó đấu tranh vì chính mình và sự nghiệp chung của quốc gia đã xóa nhòa mọi khoảng cách về ko gian, thời kì, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành binh. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi gian khổ, nguy khốn. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, ko chỉ gần nhau về ko gian địa lý nhưng còn là chung nghĩ suy, chung lý tưởng cách mệnh. Tố Hữu cũng đã nhắc đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc
Thương nhau chia củ sắn lùiát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Câu thơ 7, 8 rút ngắn với 2 từ “đồng đội” như nghẹn lại như cái choàng vai tin tưởng, như 1 dáng đứng vững chãi thu về 1 tâm điểm của sức mạnh niềm tin cứng rắn .Xúc động xen lẫn kiêu hãnh lúc nói về tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng đấu tranh những người dân cày nồng thắm lòng yêu nước, tha thiết mong 2 chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình lúc sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri kỷ, tình đồng đội.
Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, tình cảnh. Vì thế nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền phương mưa bom bão đạn đều có chung 2 chữ quê hương, từ đấy làm thắm đượm thêm tình đồng đội:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung layGiếng nước, gốc đa nhớ người ra lính……
Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất nghìn 5 văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian “Cây đa cũ, bến đò xưa… …”, được Chính Hữu sử dụng 1 cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền phương và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm 2 chữ “ Đồng đội” , là yếu tố góp phần làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.
Tình đồng đội, đồng chí trong thời gian kháng chiến chống Pháp như 1 nguồn cảm hứng dồi dào để các thi sĩ, nhà văn chắp bút. Và trong khó khăn, vẻ đẹp của tình người đó tỏa ra 1 nguồn sáng hơn bao giờ hết:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những cụ thể đầy tính chân thật. Đấy là áo rách, quần vá, chân ko giày. Câu thơ hiện lên bao sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nhắc đến căn bệnh này
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùm
Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi – anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm, san sớt của người lính sát cánh bên nhau:
Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày..Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Những câu thơ tưởng dường như là kể, là tả mà tới câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó ko còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đấy 1 chút ngượng ngùng, lề mề trong tình cảm chân thực của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi – anh”, “Quần – áo”, “Cười buốt giá – Chân ko giày”. Hình ảnh người lính- đồng đội được nâng dần lên từ sự gian lao thiếu thốn bao lăm thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu
Ba câu thơ cuối là 1 bức tranh hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất về hình ảnh người lính:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Trong bức tranh đó, nổi trội lên trên nền rừng hoang sương muối là sự liên kết của 3 hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó hình thành 1 quang cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực ác liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang sơ, hà khắc của thời tiết lúc phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi dao đâm vào da thịt, trong khi cái chết đang kế cận bên mình người lính vẫn thung dung, mặc nhiên cùng nhau “ chờ giặc đến”. Cách nói của Chính Hữu ko chỉ cho ta thấy rõ hơn tình cảnh của trận đấu nhưng còn sáng ngời ý thức đấu tranh của chú quân nhân cụ Hồ. Và trong ko gian đó, thi sĩ đã có 1 phát hiện rất thi vị:
“Đầu súng trăng treo”.
Đây có nhẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất lúc viết về anh quân nhân cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong 1 đêm khuya u tịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu trưng của trận đấu đấu khó khăn, hy sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu trưng của 1 sự thanh bình – điều nhưng những người lính đang mong mỏi hướng đến. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh đầy thi vị, trong trận đấu khó khăn, thậm chí phải hy sinh cả tính mệnh của mình cho nền độc lập của Non sông, họ vẫn mặc nhiên, sáng sủa, yêu đời. Họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Dù trong rừng hoang sương muối ban đêm và biết bao nguy hiểm, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở mang tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp tươi của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 hình ảnh hấp dẫn nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là 1 sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mệnh giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế tĩnh tâm, chủ động “chờ giặc đến”. Mọi gian khổ, khó khăn, ko khí căng thẳng của trận đánh đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung linh, diệu huyền của ánh trăng nơi rừng núi hoang vu, hiểm trở.
Cảm nhận về bài thơ “Đồng đội”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi 1 luồng gió nhẹ nhõm về tình đồng đội, đồng chí trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đầy gian khó. Với sự liên kết của văn pháp hiện thực và lãng mạn, tiếng nói bình dị, thiên nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để khiến cho những lời thơ trở thành thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của 1 ý thức “Quyết tử cho Non sông quyết sinh”.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội ngắn gọn
Bài thơ Đồng đội như là lời chuyện trò tâm tư rủ rỉ của 2 người chiến sĩ trong 1 đêm rét chung chăn. Có 2 đối tượng trữ tình là và “tôi” với những nét riêng của từng người và những nét chung của cả 2 người. 1 điều thú vị là nếu đem thay tất cả những chỗ của “anh” bằng “tôi” (và tất nhiên, “tôi” lại được thay bằng “anh”) thì cả về vần lẫn nhịp lẫn nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như ko chỉnh sửa. Sự hoán vị đó tiến hành được dễ ợt chính bởi vì “anh” và “tôi” rất giống nhau, vì tác giả ko nhằm mục tiêu nói về nét riêng, nét cá thể, của “anh” và của “tòi”. Cái đích nhưng tác giả hướng đến là Đồng đội, là khuôn mặt ý thức của đội quân cách mệnh thời hiện giờ. Vì vậy nhưng lúc đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỷ, có người áo rách vai, có người quần vài mảnh vá, có bàn chân ko giày.
Những cụ thể thơ rất lựa chọn gợi nhớ ngay về 1 thời các chiến sĩ vừa rời luống cày, mảnh ruộng “áo vải chân ko đi lùng giặc đánh”. Nhưng bài thơ chẳng hề ngừng lại ở những nét vẻ ngoài của các chiến sĩ qua “anh” qua “tôi”, thi sĩ muốn qui nạp, muốn nói chung lên những nét chung nhất cho quê hương, làng mạc, anh và tôi, dần dần gần gụi nhau, thân thiện nhau, gắn bó với nhau và hòa lẫn trong nhau. Điều này thấy rõ trong cả cấu trúc từng câu thơ và cả đoạn thơ:
Quê hương anh…Làng tôi…
Sự sóng đôi ở cả 2 câu thơ của anh và tôi dẫn tới sự gần gụi “anh với tôi” trong cùng 1 câu thơ, tiếp đấy là đôi người – thành 1 đôi, mà là “đôi người lạ lẫm” – sau đấy mới là “đôi tri kỷ”. Và rốt cuộc sau những gắn bó “súng bên súng đầu sát bên đầu” sau những “đôi tri âm” là 1 tình cảm mới mẻ nhất thiêng liêng nhất gắn bó tất cả mọi người ĐỒNG CHÍ. Hai từ “Đồng đội” mới mẻ đấy đã như là sự kết tinh, sự hội tụ những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con người. Đồng đội là tri kỷ, mà cao hơn tri kỷ, mới hơn tri kỷ vì nó là tình cảm của 1 đội quân số đông những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn đấu tranh của những người cách mệnh.
Đoạn 2 của bài thư lại quay trở về lại những cái nét riêng, những con người gắn bó với nhau bằng tình đồng đội. Đồng đội được xây dựng từ những con người của mọi miền quê, từ 1 làng nghèo “đất cày lên sỏi đá” của 1 vùng trung du hay miền núi, đến 1 vùng “nước mặn đồng chua” đồng bằng ven biển. Đồng đội được tạo nên khi mà kề vai sát cánh “súng bên súng đầu sát bên đầu”.
Đồng đội được thách thức bằng những thiếu thốn, bệnh tật (áo rách vai, quần vá, chân ko giày, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.)
Đồng đội được vun vén bởi tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp diễn những cụ thể không giống nhau để làm nổi trội ý thức đồng đội của những chiến sĩ, 1 lần nữa “anh” và “tôi” lại hòa lẫn vào khuôn mặt chung của đồng đội, đồng chí:
Miệng cười buốt giá,
Chân ko giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Những câu thơ ko rõ chủ thể này chính là nói về đồng đội – điểm sáng ngời trong tâm hồn các chiến sĩ vô danh. Chỉ 1 hành động tay nắm lấy bàn tay nhưng biết bao ý nghĩa. Tình cảm đồng đội là thế ấy, biểu hiện rất mộc mạc, ko ồn ã, mà lắng sâu thấm thía. Bàn tay nói lời yên lặng của sự kết đoàn, sự gắn bó, sự thông cảm, và cả niềm hẹn hứa hẹn lập công.
Những dòng thơ rốt cuộc như 1 tượng đài lừng lững cho tình cảm đồng đội thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của tự nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là 1 hình ảnh thực trong những đêm mai phục của tác giả, mà chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng đấu tranh của quân đội cách mệnh đã tạo cho hình ảnh đấy 1 vẻ đẹp nói chung, biểu tượng.
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí cụ thể nhất
“Đồng đội” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người dân cày mặc áo lính trong những 5 đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lăng. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau thắng lợi Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua 1 hành trình nửa thế kỉ làm quyền quý 1 hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có 1 vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho độc giả trẻ hiện tại.
Bài thơ “Đồng đội” ngợi ca tình đồng chí khó khăn có nhau, vào tử sinh có nhau của các anh quân nhân Cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi quân nhân đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn thời 9 5 kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên 2 “khuôn mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như nhẫn tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tư của 1 tình bạn thân thiện:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, dễ thương như tâm hồn người trai cày ra trận đấu giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng đội sau này.
5 câu thơ tiếp theo nói lên 1 giai đoạn thương yêu: từ “đôi người lạ lẫm” rồi “thành đôi tri âm”, về sau kết thành “đồng đội”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, xúc cảm vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm – Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí!”
“Súng bên súng” là cách nói súc tích, hình tượng: cùng chung lí tưởng đấu tranh; “anh với tôi” cùng ra trận đấu giặc để bảo vệ quốc gia quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn đạt tâm đầu ý hợp của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm 1 thời khó khăn. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri âm”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn đấu tranh thành tri âm, về sau biến thành đồng đội! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại 2 từ “đồng đội” làm diễn đạt niềm kiêu hãnh xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động lúc nghĩ về 1 tình bạn đẹp. Kiêu hãnh về mối tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng đấu tranh của những người binh nhị vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đấu giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri âm, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng nhưng ấm áp tình tri âm, tình đồng đội đó mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, ko bao giờ có thể quên:
“Ôi núi thẳm rừng sâuTrung đội đã về đâuBiết chăng chiều mưa mauNơi đây chăn giá ngắtNhớ cái rét lúc đầuThấm mối tình Việt Bắc…”(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nhắc đến 2 người đồng đội cùng nhau 1 nỗi nhớ: nhớ ruộng rẫy, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng đượm đà 1 tình quê vơi đầy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân yêu của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu áp dụng, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang hôm sớm dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?
Hay “người ra lính” vẫn hôm sớm ấp ôm hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả 2 phía chân mây, tình yêu quê hương đã góp phần tạo nên tình đồng đội, làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thảm khốc thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ đó, trong bài thơ “Bao giờ quay về”, Hoàng Trung Thông viết:
“Bấm tay tính buổi anh đi,Mẹ thường vẫn nhắc: biết lúc nào về ?Lúa xanh xanh ngắt chân đê,Anh đi là để giữ quê quán mình.Cây đa bến nước sân đình,Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.Hoa cau thơm ngát đầu nương,Anh đi là giữ tình thương dạt dào.(…) Anh đi 9 đợi mười chờ,Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”
7 câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những cụ thể rất thực phản ảnh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 5 bị thực dân Pháp cai trị, dân chúng ta đã quật khởi đứng lên giành lại đất nước. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… dân chúng ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lăng. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua vô vàn gian khổ: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc thang…. Người lính ra trận “áo vải chân ko đi lùng giặc chinh”, quần áo rách tơi tả, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày…”
Chữ “biết” trong đoạn thơ này tức là nếm trải, cùng chung chịu gian truân thách thức. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” hiện ra trong đoạn thơ như 1 sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng đội đượm đà cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” trình bày thâm thúy ý thức sáng sủa của 2 chiến sĩ, 2 đồng đội. Đoạn thơ được viết dưới bề ngoài liệt kê, xúc cảm từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng chí được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiện, mến thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để khích lệ nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thách thức, “đi đến và làm nên thắng trận”.
Phần cuối bài thơ đánh dấu cảnh 2 người chiến sĩ – 2 đồng đội trong đấu tranh. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Cảnh tượng chiến trận là rừng hoang sương muối. Và, 1 đêm đông cực kỳ lạnh lẽo hoang sơ giữa núi rừng chiến khu. Trong khó khăn thảm khốc, trong căng thẳng “chờ giặc đến”, 2 chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đấy là 1 đêm trăng trên chiến khu, 1 tứ thơ đẹp bất thần hiện ra:
“Đầu súng trăng treo”.
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi mai phục giặc giữa 1 đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lửng lơ trên ko như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu trưng cho vẻ đẹp quốc gia yên bình. Súng mang ý nghĩa trận đấu đấu khó khăn hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh thơ mộng, nói lên trong đấu tranh khó khăn, anh quân nhân vẫn yêu đời, tình đồng đội thêm keo sơn gắn bó, họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 thông minh thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi nghìn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ kì ảo. Mượn trăng để tả cái tĩnh mịch của chiến trận, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc đến”. Mọi gian truân căng thẳng của trận đấu sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp diệu huyền, thơ mộng của vầng trăng, và chính đấy cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng đội, tình đấu tranh.
Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị lúc nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng lúc nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng đội của các anh – người lính binh nhị buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ súc tích, mộc mạc như ngôn ngữ của người lính trong hàn ôn, tâm tinh. Phương ngôn thành ngữ, ca dao được Chính Hữu áp dụng rất cởi mở, hình thành chất thơ dung dị, hồn nhiên, đặm đà. Sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng đội” là bài thơ rất lạ mắt viết về anh quân nhân Cụ Hồ – người dân cày mặc áo lính, những người hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là 1 tượng đài chiến sĩ hoa lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Cảm tưởng về bài Đồng đội đầy đủ
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ông tham dự quân đội 5 1947 và mở đầu làm thơ, Chính Hữu viết ko nhiều mà có địa điểm rất xứng đáng trong nền thơ tiên tiến Việt Nam, điển hình là bài thơ ” Đồng đội” có mặt trên thị trường 5 1948 sau lúc Chính Hữu cùng đồng chí vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông 5 1947. Bài thơ đã nhắc đến đến 1 thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh quân nhân cụ Hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đấy là tình đồng đội.
Bài thơ gồm 2 mươi dòng thơ với tiếng nói bình dị giọng điệu rủ rỉ tâm tư xúc cảm dồn nén, ” Đồng đội” ngợi ca tình đồng đội khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của người lính anh quân nhân cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Tới với 7 câu thơ đầu tác giả lý giải về cơ sở tạo nên tình đồng đội, trước nhất tình đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự đồng nhất về cảnh ngô xuất thân nghèo đói.
“Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi đối ứng nhau như lời tâm tư, rủ rỉ về quê hương anh quân nhân. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo đói là nơi” nước mặn đồng chua”, ” đất cày lên sỏi đá”, mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê nơi chôn rau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị chất thơ mộc mạc dễ thương như tâm hồn người trai cày đánh giặc.
Chung hoàn cảnh xuất thân những người lính còn chung lý tưởng đấu tranh và độc lập tự do của Tổ Quốc:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Chính điều đấy đã khiến họ từ những người lạ lẫm trở thành thân quen với nhau và trong đội ngũ quân đội cách mệnh.
“Tôi với anh đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”
Đặc thù tình đồng đội được nảy nở và kết thành bền chặt trong sự chan hòa, san sớt gian khó cũng như thú vui trong cuộc đời người lính.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”
Trong những đêm trường gió lạnh, những người lính cùng đắp chung chăn, có thể hàn ôn cùng nhau nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, chính vì thế từ những người lạ lẫm họ đã biến thành tri âm.
Sau 6 câu thơ đầu tác giả hạ 1 dòng đặc thù : ” Đồng đội! ” chỉ có 2 chữ và 1 dấu chấm than mà ý nghĩa cực kỳ hàm xúc, nó tạo thành 1 nốt nhấn, nó vang lên như 1 tiếng gọi khẩn thiết, xúc động từ đáy lòng, đây là tình cảm được kết tinh từ mọi xúc cảm, là cao độ của tình bạn, tình người, bắt nguồn từ những tình cảm mang tính truyền thống, cùng lúc cũng là sự gắn kết của bài thơ.
Mười 2 câu thơ tiếp theo là những biểu thị xúc động của tình đồng đội và sức mạnh của tình cảm đó ở người lính, tình đồng đội trước nhất là sự thông cảm sâu sa tâm sự nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân càyCăn nhà ko chớ thây gió lung lay”
Khi tấm chăn chung đắp lại, có bao lăm hàn ôn của người lính được mở ra, họ kể cho nhau nghe chuyện ruộng lương, nhà cửa, người nhà… đấy là những hình ảnh cực kỳ gắn bó với người lính.
Đằng sau thái độ dứt khoát ra đi đó những người lính vẫn gắn bó với quê hương:
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính
Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hoán dụ chỉ những đứa ở hậu phương, là người mẹ già, người vợ, con thơ đang dõi theo, đang nhớ đến người trai cày ra trận, cũng có thể nói đây là nỗi nhớ của người lính đang ấp ôm hình bóng quê hương, bởi những gì giản dị gần gụi nhất là những thứ dễ gợi nhớ gợi thương nhất.
Những dòng thơ tiếp theo vẫn trình bày tình đồng đội 1 cách cảm động, đồng đội đấy là cùng nhau san sớt những thiếu thốn gian khó của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhRét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Tới đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những cụ thể chân thật, đấy là chiếc áo rách, quần vá và đôi chân ko giày, đấy còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. tất cả làm nổi trội ko gian thiếu thốn của người lính. Đây cũng là những gian khổ chung của quân và dân ta trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà điều chủ công nhưng Chính Hữu muốn nói ở đây không hề là cái khổ nhưng là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối ứng nhau, cùng với các từ ” tôi” “anh” cùng hiện ra đã góp phần diễn đạt sự san sớt, sự giống nhau trong mọi hoàn cảnh của người lính.
Khó khăn khó khăn thế mà họ vẫn sáng ngời nụ cười sáng sủa” mồm cười buốt giá” và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương ” thương nhau… tay”, hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị mà cực kỳ gợi cảm, nó vừa trình bày tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh của tình cảm đó, hình như chỉ bằng 1 cử chỉ ” tay nắm bàn tay” nhưng người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.
Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng đẹp của cuộc đời người lính:
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”
Trong bức tranh, nổi trội trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là 3 hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng… Ba hình ảnh này đã hình thành 1 bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước nhất tính hiện thực được trình bày ở ko gian và cảnh huống chi tiết, thời kì: đêm nay, ko gian: rừng hoang sương muối, còn cảnh huống là tình cảnh những người lính: đứng canh bên nhau chờ giặc đến, tất cả đều trình bày sự ác liệt của chiến tranh, chẳng những phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi kim trâm vào da, thịt nhưng cái chết còn dình dập bên mình bởi có thể trong giây khắc nữa thôi quân địch sẽ nổ súng và biết đâu 1 trong số họ sẽ ngã xuống, mà tình đồng chí đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi gian khổ khó khăn.
Như vậy, bằng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn không giống nhau, tiếng nói cô đọng, hình ảnh thơ giản ị, chân thật vừa mang ý nghĩa biểu trưng, bài thơ đồng đội của Chính Hữu đã trình bày 1 cách xúc động tình đồng đội đồng chí sâu nặng đượm đà của người lính anh quân nhân cụ hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, họ chính là những con người cao hấp dẫn nhất, điển hình cho chủ nghĩa người hùng cách mệnh trong thời đại Hồ Chí Minh.
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí hay nhất
Đồng đội là 1 bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những cụ thể, những hình ảnh cực kỳ chân thực, chi tiết nhưng đầy tính sàng lọc, nói chung, bài thơ đã trình bày 1 cách cảm động tình đồng đội gắn bó giữa những người dân cày mặc áo lính, cùng đấu tranh gìn giữ độc lập tự do của Non sông.
Toàn bộ tứ thơ của Đồng đội tăng trưởng quay quanh mối quan hệ giữa các đối tượng tôi và anh. Ở đây, thi sĩ đã hóa thân vào các đối tượng trữ tình cũng là những đồng chí thân thiện với mình để nói lên những tình cảnh, biểu thị những tâm cảnh, tình cảm của họ.
Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ khi mở màn. Họ đều là những người dân cày mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn khó nhọc, gian truân. Những con người khổ nghèo đó vừa được Cách mệnh giải phóng và giờ đây gắn bó đượm đà vì mục tiêu của trận đấu đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mệnh giữa những người dân cày “tứ phương” này cũng được Hồng Nguyên trình bày 1 cách hồn nhiên trong phần mở màn bài Nhớ:
Lũ chúng tôiBọn người tứ xứGặp nhau hồi chưa biết chữQuen nhau từ buổi 1, haiSúng bắn chưa quenQuân sự mươi bàiLòng vẫn cười vui kháng chiến…
Từ “đôi người lạ lẫm” tới “thành đôi tri âm”, từ “chẳng hứa hẹn quen nhau” tới “đêm rét chung chăn” đấy hình như là sự gặp mặt, gắn bó ngẫu nhiên mà thực lại rất thiên nhiên và dĩ nhiên bởi những con người này cùng đấu tranh, hi sinh vì 1 lí tưởng cao cả. Hai câu thơ nhưng chứa đựng, kết hợp được nhiều hình ảnh sinh động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn, thành đôi tri âm
Chính Hữu đã dùng 1 từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn đạt 1 tình cảm rất mới. Chữ “tri âm” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri âm này là tình đồng đội. Chính vì vậy, từ “đồng đội” được tác giả được tác giả tách riêng thành 1 dòng thơ. Đây là cụ thể nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết 2 phần của bài thơ.
Có thể xem dòng thơ cực kỳ ngắn này là 1 tiếng gọi khẩn thiết, nghiêm trang từ đáy lòng những người dân cày mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong 1 quan hệ mới (Sau chữ “đồng đội” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đấy, cần trả nó về tình cảnh lịch sử chi tiết. Trước Cách mệnh thành công ở thời gian tỉnh ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng kết đoàn hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những 5 đầu kháng chiến gian truân lúc toàn dân đang nhất loạt đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà cảm tử cho Non sông quyết sinh” ở những 5 tháng, những thời đIểm đó, nghĩa đồng bào, đồng đội thật thiêng liêng và cực kỳ được trân trọng (Chữ “đồng đội” chúng ta dùng hiện giờ hẳn khác). Thuộc tính thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người dân cày vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mệnh giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì vậy, chúng ta thêm hiểu tại sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng đội nhưng ko lấy 1 cái tên khác, chả hạn “đồng chí”. Quả thật, chữ “đồng đội” hàm nghĩa cao rộng hơn, nhưng cũng sâu hơn. Nghĩa đồng đội, 1 mặt, là cơ sở, là nền móng; mặt khác, cũng là then chốt, là thực chất của tình đồng chí. Về cuối cuộc kháng chiến 9 5, lúc chứng kiến chủ nghĩa người hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, chi tiết thêm tình đồng chí:
5 mươi 6 ngày đêm bom gầm pháo dộiTa mới hiểu thế nào là đồng độiĐồng đội taLà hớp nước uống chungNắm cơm bẻ nửaLà chia nhau 1 trưa nắng, 1 chiều mưaChia khắp anh em 1 mẩu tin nhàChia nhau đứng trong hào chiến đấu chật hẹpChia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…(Giá từng thước đất)
Đấy là 1 bước chi tiết hóa tình đồng đội. Còn khi này (1948) ở buổi đầu kháng chiến cái cần nhấn mạnh là sự , là sự cùng chí hướng trong thách thức gian truân. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành 1 dòng thơ của từ “đồng đội” mang ý nghĩa đó.
Vừa dồn tụ xúc cảm ở 6 dòng thơ trước, dòng thơ chỉ 1 từ này cùng lúc vào vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các đối tượng trữ tình (tôi và anh) từ “đồng đội” còn như khắc ấn 1 định nghĩa mới mẻ nhưng cả phần sau của bài thơ là sự vỡ vạc, sự nhận thức nhau rõ hơn để thông cảm, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng đội đó là gửi lại ruộng rẫy, từ giã giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” gìn giữ độc lập tự do của quốc gia. Đồng đội đó là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng đội đó là sự sẻ chia và khích lệ nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay
Tình đồng đội đượm đà làm cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những cụ thể bé nhất của đời sống. Điều đáng để mắt là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đấy mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu tới cuối bài Đồng đội, trong cặp đối tượng trữ tình, bao giờ anh cũng hiện ra trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt tiếng nói đó phải chăng phản ảnh 1 nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm thâm thúy giữa những người cùng hoàn cảnh, cùng bổn phận.
Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng khó khăn, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, đó mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mệnh. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu 1 cụ thể cực kỳ chi tiết. Từng cụ thể cô gọn đó cứ tuần tự khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tư, cảm xúc ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Nghe đâu đây là cao trào của xúc cảm mến thương trong người chiến sĩ. Thương nhau cực kỳ trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng rắn rỏi, nghị lực cực kỳ bởi cử chỉ đó chỉ có lúc những người chiến sĩ đã tinh thần đầy đủ về tình cảnh của quốc gia kháng chiến, về bổn phận cao cả của mình. Cử chỉ đó hình như chứa đựng sự tự tinh thần, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và căn dặn nhau. Tình cảm ko xốc nổi nhưng đằm sâu.
Chính giai đoạn nhận thức rõ về tình đồng đội, chính bước tăng trưởng cao của tình mến thương lẫn nhau như trên đã dẫn tới đoạn xong xuôi lạ mắt:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Ba câu thơ nhưng nói được rất nhiều điều. Đấy là tình cảnh sẵn sàng đấu tranh đặc điểm ko gian và thời kì: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đấy là tình đồng đội keo sơn trong khó khăn, là ý thức chuẩn bị vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Đấy là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của trận đấu đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Không phải trùng hợp nhưng sau này Chính Hữu đặt tên cho 1 tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không hề thiên nhiên nhưng trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội dân chúng thường xuất hiện ảnh ảnh này. Nhà thơ đã thông minh được 1 hình ảnh thật lạ mắt, giàu sức nói chung. Đầu súng trình bày của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo hình ảnh của tự nhiên trong mát, của cuộc sống yên bình. Sự liên kết thiên nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trắng trong,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của trận đấu tranh yêu nước. Chúng ta bền gan đấu tranh, khó khăn hi sinh chính vì vầng trăng đó, vì cuộc sống yên bình. Hình ảnh và nhịp độ thơ này lửng lơ, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có khó khăn mà cũng có thú vui, vừa là thực vừa mang tính biểu trưng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mệnh đặm đà thật khó phân tách hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những xúc cảm lạc điệu buổi đầu, tới Đồng đội, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp 1 bài thơ hoàn hảo về người chiến sĩ quân đội dân chúng Việt Nam. Giả dụ trước đấy chưa đầy 1 5, anh quân nhân kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giày vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” ngày giờ đây anh hiện ra trong Đồng đội với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân ko giày và với tâm hồn mộc mạc, thắm thiết, đầy yêu thương trong khó khăn. Đồng đội cũng trình bày rõ cá tính thơ lạ mắt của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng cụ thể, từng hình ảnh để vừa chi tiết, vừa giàu tính nói chung, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa 1 tâm hồn tha thiết, da diết tự bên trong.
Cảm nhận của em về bài thơ Đồng Chí
“Đồng đội”! Ôi tiếng gọi sao nhưng thân yêu khẩn thiết quá. Nó biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những 5 1948 của thời gian kháng Pháp. Cảm thu được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – người chiến sĩ cách mệnh đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.
Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn của thời gian kháng chiến 9 5. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê heo hút không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng những lời thơ thật cảm động:
Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đáAnh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì dị ở những người chiến sĩ. Đấy là sự tăng trưởng của tình cảm cách mệnh trong quân đội ta. Từ những con người rất “lạ lẫm” trong đời sống lại biến thành những đồng đội rất thân yêu trong đấu tranh. Nhà thơ đã chọn lọc những cụ thể, những hình ảnh thơ rất chân thật để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo đói “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “lạ lẫm”. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”. “Đôi” là chỉ 2 nhân vật cùng đi với nhau. “Đôi người lạ lẫm” tức là 2 người cùng đi với nhau nhưng mà là lạ lẫm. Vì vậy ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời cách biệt, những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên cả 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người lạ lẫm đó đã cùng nhau đấu tranh, cùng chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy, họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm. Đồng đội!
Câu thơ vừa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả chân những giờ khắc bên nhau cùng đấu tranh cùng lúc hình ảnh đó còn biểu tượng cho sự nghiệp đấu tranh chung, lí tưởng cách mệnh chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người lạ lẫm” đó đã nảy nở 1 tình cảm mới lúc họ cùng đấu tranh, cùng 1 lý tưởng mập lao. Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhõm bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng đội” lại được tách thành 1 câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó, tác giả làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ: “Đồng đội” – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. “ Đồng đội”, 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng đội!”.
Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng rẫy anh gởi bạn thân cày”, “gian nhà ko, chớ thây gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tư đó, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi cùng chịu với nhau “từng cơn ớn lạnh”, những khi “ rét run người vừng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu “ áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì mồm vẫn cười tươi. Bằng những cụ thể rất thực, thi sĩ đã mô tả rõ nét cuộc sống đấu tranh khó khăn và sự gắn bó của tình đồng chí keo sơn. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương, những người chiến sĩ hiểu hiện tình đồng đội là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội. Đoạn thơ với nhiều nét tả chân cụ thể nhưng ko trần truồng, vẫn gợi cảm nhớ hình ảnh “anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” mà ko biết làm sao, chỉ biết âm thầm “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu thị tình cảm đáng quý như thế.
Mối tình đồng đội lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo.
Câu thơ vừa tả chân vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính đấu tranh lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đầy là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội, đang nẩy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thơ thật lạ mắt, gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.
Toàn bộ bài thơ bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sức nói chung cao. Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây, thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống trong đời thường những người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đấy hình thành sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong công đoạn chống Pháp.
Đồng đội! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những xúc cảm dạt dào. Chúng ta đã cảm thu được mối tình đồng đội đặm đà đó qua những lời thơ nhẹ nhõm khẩn thiết như bài hát tâm tư của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã chiến thắng vang dội, trang sử vàng đã sang qua bao lăm công đoạn mới, thế mà mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng đội ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh quân nhân Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân yêu trong những lời thơ của Chính Hữu.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu
Đồng đội của thi sĩ Chính Hữu là 1 bài thơ hay viết về người lính.Với giọng thơ bình dị, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu được phác họa đầy tính chân thật giản dị, mà vẫn toát lên vẻ bi hùng, hào hùng của những người người hùng của dân tộc.
Bài thơ ngợi ca tình cảm đồng đội, đồng chí trong khó khăn có nhau san sớt với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm nom nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi gian khổ thách thức có thể xảy ra mà nhờ có tình cảm đồng đội nhưng họ ko cảm thấy độc thân trống vắng.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Trong 2 câu thơ này hình ảnh những người lính được đến từ những vùng quê nghèo không giống nhau, 4 phương trời chẳng hứa hẹn nhưng quen. Họ cùng tụ hội ở đây dưới ngọn cờ của cách mệnh, bởi tình yêu quê hương quốc gia. Họ có chung 1 lý tưởng lớn lao muốn giải phóng quê hương khỏi bóng quân địch.
Từ những con người hoàn toàn lạ lẫm mà họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng dưới lá cờ của non sông. Họ đến nơi đây cùng chung 1 mơ ước, 1 ý chí, ý thức, 1 tiêu chí cố gắng. Đấy chính là hướng nòng súng của mình đến những đối phương để bảo vệ quê hương và những người nhà yêu nơi quê nhà đang chìm trong khó khăn, lam lũ bởi sự giày xéo của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu đến, bóc lột cai trị quốc gia ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm bầy tớ, bắt quốc gia ta phải sống cảnh thực dân địa lầm than.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí!”
Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, trình bày họ có chung 1 tiêu chí đấu tranh, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có 1 đối phương chung của toàn dân tộc. Những người lính thân thương của chúng ta ra đi lúc tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão mập lao, tình yêu quê hương phệ mập. Họ chuẩn bị cống hiến trái tim và thân xác để bảo vệ dân tộc.
Tình yêu quê hương quốc gia mập hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn toan lo trằn trọc, mà họ cố gắng ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương quốc gia.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày…”
Những người dân cày từ khắp các vùng miền của non sông, ngôn ngữ không giống nhau, phong tục tập quán không giống nhau, tình cảnh sống không giống nhau. Nhưng tất cả đã góp sức tuổi xanh, sức lực trí óc của mình để bảo vệ cho được mảnh đất quê hương.
Họ ra đi lúc tuổi đời còn đang xuân xanh phất phới, tâm hồn còn đang ngập tràn tâm huyết, dòng máu đang chảy trong người họ ấm hot những mơ ước khao khát của tuổi xanh.Các anh ra đi có những người con chưa 1 lần cầm tay cô gái mình thích thú, chưa 1 lần rung động. Nhưng lúc non sông cần thì tất cả chuẩn bị lên đường đấu tranh.
Họ ra đi tương tự, ko tiếc tuổi xuân của mình chỉ với 1 mơ ước, 1 ước vọng bảo vệ cho được non sông thiêng liêng, với ý thức “cảm tử cho non sông quyết sinh”. Những hy sinh khó khăn của các anh, thiên hạ sau vẫn còn ghi nhớ mãi, công huân trời biển của các anh ko khoảnh khắc nào non sông quên ơn.
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.
Những câu thơ này trình bày sự tinh tế của Chính Hữu lúc tác giả đã sử dụng hình ảnh cực kỳ nghệ thuật “đầu súng trăng treo”. Chính Hữu đã tinh tế lúc vẽ lên 1 bức tranh giữa 1 cái cực kỳ lãng mạn đậm chất thơ đấy chính là ánh trăng, với 1 thứ biểu tượng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh cực kỳ sinh động, tươi đẹp trình bày tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ. Đấy là hình ảnh thơ mộng nói lên ý thức anh dũng của người lính, trong khó khăn mà họ vẫn yêu đời, vẫn lãng mạn
Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp bi hùng, người hùng vừa trình bày sự giản dị, mộc mạc của người chiến sĩ trong chiến tranh. Tác giả Chính Hữu đã phác họa lên hình ảnh người lính với tâm hồn thanh cao, lãng mạn, mà cũng đầy chất người hùng, bi hùng.
Cảm tưởng về bài thơ Đồng đội
Nhắc đến thơ ca thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp chẳng thể ko nhắc đến Đồng đội của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc nhưng thâm thúy của những người lính cách mệnh trong những ngày tháng kháng chiến gian khó.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: “Trong bài thơ Đồng đội, tôi muốn nhấn mạnh tới tình đồng chí. Suốt cả trận đấu đấu, chỉ có 1 chỗ dựa hình như là độc nhất vô nhị để còn đó, để đấu tranh là tình đồng đội, tình đồng chí. Đồng đội ở đây là tình đồng chí. Không có đồng chí, tôi chẳng thể nào kết thúc được phận sự, ko có đồng chí, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng đội là lời hàn ôn viết ra để tặng đồng chí, tặng người bạn dân cày của mình.”
Thật vậy, ko gian trữ tình trong Đồng đội giá buốt nhưng ko lạnh lẽo. Hơi ấm tỏa ra từ tỉnh người, từ tình tri âm, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong đội ngũ cách mệnh, đấu tranh cho độc lập, tự do của Non sông, người lính vượt lên trên mọi gian lao bằng sự sẻ chia, đồng tâm hợp lực. Họ sống trong tình đồng chí, nhờ đồng chí, vì đồng chí.
Những người đồng chí đó thường là những người “dân cày mặc áo lính”. Điểm giống nhau về hoàn cảnh xuất thân giúp họ có thể dễ ợt gần gụi, đồng cảm với nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.Anh với tôi đôi người xa lạTừ phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.
Anh và tôi” từ những vùng quê không giống nhau, chỉ giống nhau cái nghèo đói của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người lạ lẫm, từ 2. phương trời lạ lẫm biến thành tri âm:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm
Những người “dân cày mặc áo lính” đó gặp nhau trong trận đấu đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong đội ngũ những “người lính Cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách lạ lẫm về ko gian nơi sinh sống của mỗi người. “Súng bên súng” là chung đấu tranh, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: ko chỉ là gần nhau về ko gian nhưng còn chung nhau ý tưởng, lí tưởng” (Trần Đình Sử, Đọc văn chương văn, Sdđ). Tới lúc đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực thụ là anh em 1 nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để trình bày tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gụi, sẻ chia về cái thân mật ấm áp ko gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng đội đặt bắt nguồn từ cơ sở 1 tình tri âm thâm thúy, từ những cái chung giữa “anh” và “tử”.
Câu thơ thứ 7 chỉ gồm 2 tiếng: Đồng đội. Nếu ngoại trừ đầu đề thì đây là lần độc nhất vô nhị 2 tiếng Đồng đội hiện ra trong bài thơ, làm thành riêng 1 câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó ghi lại 1 mốc mới trong mạch xúc cảm và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. 6 câu thơ đầu là tình đồng chí, tri âm, tới đây được nâng lên thành tỉnh đồng đội thiêng liêng. Đồng đội tức là ko chỉ có sự gắn bó thân mật nhưng còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng đội – chiến sĩ hòa mình trong mối giao cảm mập lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng đội thì tức là cùng lúc với nhân cách họ là những con người chi tiết, là những cá thể, họ còn có nhân cách bộ đội, nhân cách của “1 cây” trong sự giao ước của “rừng cây”, tức là từng người ko chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chỉ vừa giản dị, thân mặt lại vừa cao quý, mập lao là vì vậy.
Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những cụ thể, hình ảnh chi tiết tác giả đã trình bày tình cảm thâm thúy của những người đồng đội. Trước hết, họ cùng chung 1 nỗi nhớ quê hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân càyGian nhà ko, chớ thây gió lung layGiếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương đó có nỗi nhớ ruộng rẫy, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng rẫy cũng như nhớ tay người nào cày xới, ngôi nhà nhớ người trong khi gió lung lay và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ 2 chiều. Nói. “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” cũng là giãi bày nỗi nhớ cồn các về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn túc trực, đậm sâu trong những người đồng đội, cũng là sự đồng cảm của những người đồng chí.
Người lính xuất hiện cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi đất nước song tình quê hương trong mỗi người ko lúc “nào nhạt phai. Và kế bên hình bóng quê hương, điểm tựa kiên cố cho người lính, là đồng chí:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vừng trán ướt mồ hôiÁo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng đội trong thời khắc thực tại, lúc họ đang làm nhiệm vụ đấu tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là 1 trong những hình ảnh thơ hấp dẫn nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra 1 bức tranh vừa mang chất chân thật của văn pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của văn pháp lãng mạn.
Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính – khẩu súng – vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong 1 sự liên kết bất thần, đấu súng và vầng trăng như ko còn khoảng cách xa về ko gian, để thành:
“Đầu súng trăng treo”.
Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong mô tả là lãng mạn. Hình ảnh súng biểu tượng cho hành động đấu tranh, ý thức quyết đấu vì quốc gia. Trăng biểu tượng cho cái đẹp thanh bình, thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái. quát về tư thế chủ động, tự tin trong đấu tranh. Nói rộng ra, 2 hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau hình thành biểu trưng về tình thân, ý chí gang thép nhưng bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam, chung nhau hoàn cảnh, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính – những người đồng đội sống, đấu tranh vì sự nghiệp chung của dân tộc, Bài thơ Đồng đội đã trình bày rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và đấu tranh cho hạnh phúc và tự do.

TagsChính Hữu đông chí Văn mẫu lớp 9

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Văn #mẫu #lớp #Cảm #nhận #về #bài #thơ #Đồng #chí #của #Chính #Hữu

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu

Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu mang đến dàn ý cụ thể, cùng 9 bài cảm nhận ngắn gọn, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài viết của mình thật hay. Nhờ đấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Qua 9 bài cảm nhận Đồng đội, đã cho chúng ta hiểu thâm thúy hơn về tình đồng đội, tình đồng chí gắn bó, keo sơn. Tình đồng đội được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:
Dàn ý cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu
I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng đội.
II. Thân bài: phân tách cụ thể tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ
1. Cơ sở tạo nên tình đồng đội của người lính
a. Tình đồng đội của người lính bắt nguồn từ sự đồng nhất về tình cảnh xuất thân
– Ngay từ những câu thơ mở màn, tác giả đã lí giải cơ sở tạo nên tình đồng đội đượm đà, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mệnh:
“Quê hương tôi nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”
+ Giọng điệu rủ rỉ, tâm tư như lời kể chuyện
=> Các anh ra đi từ những miền quê đói nghèo, lam lũ – miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp mặt nhau ở tình yêu Non sông mập lao. Các anh là những người dân cày mặc áo lính – đấy là sự đồng cảm về giai cấp.
– Cũng như giọng thơ, tiếng nói thơ ở đây là tiếng nói của đời sống dân dã, mộc mạc:
“Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.
=> Tới từ mọi miền quốc gia, vốn là những người lạ lẫm, các anh đã cùng trong 1 hàng ngũ và trở thành thân quen.
b. Cùng chung mục tiêu, lí tưởng đấu tranh:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
– Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa biểu tượng => Tình đồng đội, đồng chí được tạo nên trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Non sông thân thương, các anh đã cùng dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong hàng ngũ đấu tranh để tiến hành nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c. Cùng san sớt mọi gian khó, thiếu thốn
– Mối tính tri âm của những người bạn chí cốt được biểu thị bằng 1 hình ảnh chi tiết, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”.
=> Chính trong những ngày gian lao, các anh đã biến thành tri âm của nhau, để cùng chung nhau cái lạnh giá mùa đông, chia nhau cái gian khổ trong 1 cuộc sống đầy gian truân.
– Dòng thơ thứ 7 trong bài thơ “Đồng đội” là 1 điểm thông minh, 1 nét lạ mắt qua ngòi bút của Chính Hữu:
+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là 1 câu đặc thù gồm từ 2 âm tiết đồng hành dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi khẩn thiết, tạo 1 nút nhấn, lắng lại.
+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp tươi, là điểm tụ hội, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.
=> Dòng thơ thứ 7 có ý nghĩa như 1 bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ 2 của bài thơ, là điểm đặc sắc, là mạch xúc cảm chung cho toàn bài. Có thể nói, 2 tiếng “Đồng đội” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa cực kỳ thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng đội
a. Tình đồng đội của người lính Cách mệnh được biểu thị qua sự thấu hiểu những tâm sự, nỗi lòng của nhau:
– Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa mập, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trằn trọc.
– Hai chữ “chớ thây” => Thái độ dứt khoát của người ra đi lúc lí tưởng đã rõ ràng, mục tiêu đã chọn lọc:“Anh trai làng quyết đi làm thịt giặc lập công”.
– Hình ảnh “gian nhà ko” vừa gợi cái nghèo, cái xác xơ của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống vắng trong lòng đứa ở lại.
– “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhì, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và 2 hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt thâm thúy tâm cảnh, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của quốc gia.
b. Là đồng đội của nhau, họ cùng san sớt những gian khó, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ
“Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giày”.
=> Những cụ thể tả chân, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái tạo chân thật những gian khổ, khó khăn của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau phụ trách, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng chí đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi rạng ngời nụ cười và càng thương nhau hơn.
– Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách trình bày tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng chí, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng đội. Cái nắm tay đó còn là lời hẹn hứa hẹn lập công.
3. Biểu tượng của tình đồng đội
– Tình đồng chí trong bài “Đồng đội” được Chính Hữu trình bày thật đẹp qua những câu thơ cuối bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.
– Đây là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ.
– Rừng hoang sương muối: gợi sự ác liệt, hà khắc của tự nhiên, của chiến tranh.
– “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:
+“Súng” và “trăng” – 2 hình ảnh tưởng như đối lập song lại hợp nhất hòa quyện – là rắn rỏi và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mộng mơ – là chất đấu tranh và chất trữ tình – là chiến sĩ và nhà thơ.
+ Hiếm thấy 1 hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.
+ Đây là 1 phát hiện, 1 thông minh bất thần về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần tăng lên trị giá bài thơ và biến thành đầu đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
III. Kết bài: khẳng định trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật qua đấy nếu cảm nhận của em về tác phẩm.
Cảm nhận Đồng đội ngắn gọn
Đồng đội là tiếng gọi thân yêu khẩn thiết, biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh quân nhân Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm thu được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với lời thơ chất phác, ngập tràn tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.
Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê nghèo không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng lời thơ thật xúc động:
Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đáAnh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau
Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “lạ lẫm” gặp nhau. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”, vì vậy ý thơ được nhấn mạnh, mở mang thêm. “Hai người” chi tiết quá. Đôi người là từng “đôi” 1 – nhiều người. Trong đơn vị quân đội đó, người nào cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người đó cùng nhau đấu tranh, cùng nhau chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầuĐêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí”
Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhõm, rủ rỉ tâm tư, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng đội lại được tách ra làm câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó tác giả đã làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ Đồng đội – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. Đồng đội 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng đội.
Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, “Gian nhà ko chớ thây gió lung lay” cả chuyện “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”… Từ những lời tâm tư đó cho ta hiểu rằng: Các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng san sớt ngọt bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… dẫu trời có buốt giá thì mồm vẫn cười tươi. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương. Những người chiến sĩ biểu thị tình đồng đội là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý tưởng thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính mai phục chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính đấu tranh vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đây là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội đang nảy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thật lạ mắt gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.
Bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sự nói chung cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đấy hình thành sự thành công của tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời gian chống Pháp.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội
Văn học là 1 bức tranh muôn màu, nó xuất hiện dưới ngòi bút tài giỏi của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn học ko bao giờ tìm tới những thứ xa xăm, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc nhưng tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm thật tình, những chủ đề gần gụi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ ko chỉ trình bày ý thức quật cường của dân tộc nhưng nó còn phả 1 luồng gió mới vào văn học đương thời. Hòa mình vào ko khí đó, Chính Hữu với “ Đồng đội” như 1 hiện tượng hoàn hảo về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng đội”, Chính Hữu đưa độc giả vào toàn cầu hiện thực nơi núi rừng biên thuỳ tưởng lạ lẫm mà thấm đẫm tình đồng chí bằng thứ văn học giản dị, mộc mạc.
Không thể phủ nhận rằng, để có được 2 chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả 1 lứa tuổi qua 2 cuộc kháng chiến trận kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mệnh như 1 tượng đài vĩnh cửu, 1 nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận ko bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tiếng tăm của nhiều lứa tuổi các nhà văn, thi sĩ. Và Chính Hữu là 1 trong số đấy.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, 1 thi sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. “Đồng đội” là 1 trong những bài thơ điển hình nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân 5 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ngợi ca tình đồng đội cao cả và thiêng liêng, khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người dân cày mặc áo lính giữa thời khói lửa.
Với giọng thơ như 1 cách kể chuyện rủ rỉ, tâm tư cùng Ngòi bút tài giỏi, tiếng nói giản dị, đầy tính thiên nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để tạo nên nên tình đồng đội:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Anh và tôi đều có xuất thân từ những người dân cày chất phác, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn chất liệu dân gian để nói về quê hương của mình cộng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy thật tình, chất thơ mộc mạc. Phcửa ải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là yếu tố, là bệ phóng cho tình đồng đội?.
“Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”.
Cùng tình cảnh, cùng chung lý tưởng mập, các anh đã bước chân vào trục đường đầy gian truân mà cũng hết mực hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là 1 cái duyên để cho các anh gặp mặt, để cho những trái tim nồng thắm yêu nước có cơ hội tụ hội, đưa các anh từ những người dân cày chân lấm tay bùn lạ lẫm, chẳng phải thân quen thành những người bạn tri kỷ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Những người dân cày mặc áo lính đó đấu tranh vì chính mình và sự nghiệp chung của quốc gia đã xóa nhòa mọi khoảng cách về ko gian, thời kì, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành binh. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi gian khổ, nguy khốn. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, ko chỉ gần nhau về ko gian địa lý nhưng còn là chung nghĩ suy, chung lý tưởng cách mệnh. Tố Hữu cũng đã nhắc đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc
Thương nhau chia củ sắn lùiát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Câu thơ 7, 8 rút ngắn với 2 từ “đồng đội” như nghẹn lại như cái choàng vai tin tưởng, như 1 dáng đứng vững chãi thu về 1 tâm điểm của sức mạnh niềm tin cứng rắn .Xúc động xen lẫn kiêu hãnh lúc nói về tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng đấu tranh những người dân cày nồng thắm lòng yêu nước, tha thiết mong 2 chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình lúc sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri kỷ, tình đồng đội.
Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, tình cảnh. Vì thế nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền phương mưa bom bão đạn đều có chung 2 chữ quê hương, từ đấy làm thắm đượm thêm tình đồng đội:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung layGiếng nước, gốc đa nhớ người ra lính……
Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất nghìn 5 văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian “Cây đa cũ, bến đò xưa… …”, được Chính Hữu sử dụng 1 cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền phương và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm 2 chữ “ Đồng đội” , là yếu tố góp phần làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.
Tình đồng đội, đồng chí trong thời gian kháng chiến chống Pháp như 1 nguồn cảm hứng dồi dào để các thi sĩ, nhà văn chắp bút. Và trong khó khăn, vẻ đẹp của tình người đó tỏa ra 1 nguồn sáng hơn bao giờ hết:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những cụ thể đầy tính chân thật. Đấy là áo rách, quần vá, chân ko giày. Câu thơ hiện lên bao sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nhắc đến căn bệnh này
Tây Tiến đoàn binh ko mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùm
Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi – anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm, san sớt của người lính sát cánh bên nhau:
Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày..Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Những câu thơ tưởng dường như là kể, là tả mà tới câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó ko còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đấy 1 chút ngượng ngùng, lề mề trong tình cảm chân thực của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi – anh”, “Quần – áo”, “Cười buốt giá – Chân ko giày”. Hình ảnh người lính- đồng đội được nâng dần lên từ sự gian lao thiếu thốn bao lăm thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu
Ba câu thơ cuối là 1 bức tranh hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất về hình ảnh người lính:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Trong bức tranh đó, nổi trội lên trên nền rừng hoang sương muối là sự liên kết của 3 hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó hình thành 1 quang cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực ác liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang sơ, hà khắc của thời tiết lúc phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi dao đâm vào da thịt, trong khi cái chết đang kế cận bên mình người lính vẫn thung dung, mặc nhiên cùng nhau “ chờ giặc đến”. Cách nói của Chính Hữu ko chỉ cho ta thấy rõ hơn tình cảnh của trận đấu nhưng còn sáng ngời ý thức đấu tranh của chú quân nhân cụ Hồ. Và trong ko gian đó, thi sĩ đã có 1 phát hiện rất thi vị:
“Đầu súng trăng treo”.
Đây có nhẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất lúc viết về anh quân nhân cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong 1 đêm khuya u tịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu trưng của trận đấu đấu khó khăn, hy sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu trưng của 1 sự thanh bình – điều nhưng những người lính đang mong mỏi hướng đến. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh đầy thi vị, trong trận đấu khó khăn, thậm chí phải hy sinh cả tính mệnh của mình cho nền độc lập của Non sông, họ vẫn mặc nhiên, sáng sủa, yêu đời. Họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Dù trong rừng hoang sương muối ban đêm và biết bao nguy hiểm, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở mang tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp tươi của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 hình ảnh hấp dẫn nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là 1 sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mệnh giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế tĩnh tâm, chủ động “chờ giặc đến”. Mọi gian khổ, khó khăn, ko khí căng thẳng của trận đánh đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung linh, diệu huyền của ánh trăng nơi rừng núi hoang vu, hiểm trở.
Cảm nhận về bài thơ “Đồng đội”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi 1 luồng gió nhẹ nhõm về tình đồng đội, đồng chí trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đầy gian khó. Với sự liên kết của văn pháp hiện thực và lãng mạn, tiếng nói bình dị, thiên nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để khiến cho những lời thơ trở thành thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của 1 ý thức “Quyết tử cho Non sông quyết sinh”.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội ngắn gọn
Bài thơ Đồng đội như là lời chuyện trò tâm tư rủ rỉ của 2 người chiến sĩ trong 1 đêm rét chung chăn. Có 2 đối tượng trữ tình là và “tôi” với những nét riêng của từng người và những nét chung của cả 2 người. 1 điều thú vị là nếu đem thay tất cả những chỗ của “anh” bằng “tôi” (và tất nhiên, “tôi” lại được thay bằng “anh”) thì cả về vần lẫn nhịp lẫn nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như ko chỉnh sửa. Sự hoán vị đó tiến hành được dễ ợt chính bởi vì “anh” và “tôi” rất giống nhau, vì tác giả ko nhằm mục tiêu nói về nét riêng, nét cá thể, của “anh” và của “tòi”. Cái đích nhưng tác giả hướng đến là Đồng đội, là khuôn mặt ý thức của đội quân cách mệnh thời hiện giờ. Vì vậy nhưng lúc đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỷ, có người áo rách vai, có người quần vài mảnh vá, có bàn chân ko giày.
Những cụ thể thơ rất lựa chọn gợi nhớ ngay về 1 thời các chiến sĩ vừa rời luống cày, mảnh ruộng “áo vải chân ko đi lùng giặc đánh”. Nhưng bài thơ chẳng hề ngừng lại ở những nét vẻ ngoài của các chiến sĩ qua “anh” qua “tôi”, thi sĩ muốn qui nạp, muốn nói chung lên những nét chung nhất cho quê hương, làng mạc, anh và tôi, dần dần gần gụi nhau, thân thiện nhau, gắn bó với nhau và hòa lẫn trong nhau. Điều này thấy rõ trong cả cấu trúc từng câu thơ và cả đoạn thơ:
Quê hương anh…Làng tôi…
Sự sóng đôi ở cả 2 câu thơ của anh và tôi dẫn tới sự gần gụi “anh với tôi” trong cùng 1 câu thơ, tiếp đấy là đôi người – thành 1 đôi, mà là “đôi người lạ lẫm” – sau đấy mới là “đôi tri kỷ”. Và rốt cuộc sau những gắn bó “súng bên súng đầu sát bên đầu” sau những “đôi tri âm” là 1 tình cảm mới mẻ nhất thiêng liêng nhất gắn bó tất cả mọi người ĐỒNG CHÍ. Hai từ “Đồng đội” mới mẻ đấy đã như là sự kết tinh, sự hội tụ những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con người. Đồng đội là tri kỷ, mà cao hơn tri kỷ, mới hơn tri kỷ vì nó là tình cảm của 1 đội quân số đông những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn đấu tranh của những người cách mệnh.
Đoạn 2 của bài thư lại quay trở về lại những cái nét riêng, những con người gắn bó với nhau bằng tình đồng đội. Đồng đội được xây dựng từ những con người của mọi miền quê, từ 1 làng nghèo “đất cày lên sỏi đá” của 1 vùng trung du hay miền núi, đến 1 vùng “nước mặn đồng chua” đồng bằng ven biển. Đồng đội được tạo nên khi mà kề vai sát cánh “súng bên súng đầu sát bên đầu”.
Đồng đội được thách thức bằng những thiếu thốn, bệnh tật (áo rách vai, quần vá, chân ko giày, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.)
Đồng đội được vun vén bởi tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp diễn những cụ thể không giống nhau để làm nổi trội ý thức đồng đội của những chiến sĩ, 1 lần nữa “anh” và “tôi” lại hòa lẫn vào khuôn mặt chung của đồng đội, đồng chí:
Miệng cười buốt giá,
Chân ko giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Những câu thơ ko rõ chủ thể này chính là nói về đồng đội – điểm sáng ngời trong tâm hồn các chiến sĩ vô danh. Chỉ 1 hành động tay nắm lấy bàn tay nhưng biết bao ý nghĩa. Tình cảm đồng đội là thế ấy, biểu hiện rất mộc mạc, ko ồn ã, mà lắng sâu thấm thía. Bàn tay nói lời yên lặng của sự kết đoàn, sự gắn bó, sự thông cảm, và cả niềm hẹn hứa hẹn lập công.
Những dòng thơ rốt cuộc như 1 tượng đài lừng lững cho tình cảm đồng đội thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của tự nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là 1 hình ảnh thực trong những đêm mai phục của tác giả, mà chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng đấu tranh của quân đội cách mệnh đã tạo cho hình ảnh đấy 1 vẻ đẹp nói chung, biểu tượng.
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí cụ thể nhất
“Đồng đội” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người dân cày mặc áo lính trong những 5 đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lăng. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau thắng lợi Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua 1 hành trình nửa thế kỉ làm quyền quý 1 hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với tiếng nói bình dị, giọng điệu rủ rỉ tâm tư, xúc cảm dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có 1 vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho độc giả trẻ hiện tại.
Bài thơ “Đồng đội” ngợi ca tình đồng chí khó khăn có nhau, vào tử sinh có nhau của các anh quân nhân Cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi quân nhân đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn thời 9 5 kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên 2 “khuôn mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như nhẫn tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tư của 1 tình bạn thân thiện:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, dễ thương như tâm hồn người trai cày ra trận đấu giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng đội sau này.
5 câu thơ tiếp theo nói lên 1 giai đoạn thương yêu: từ “đôi người lạ lẫm” rồi “thành đôi tri âm”, về sau kết thành “đồng đội”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, xúc cảm vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm – Tự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí!”
“Súng bên súng” là cách nói súc tích, hình tượng: cùng chung lí tưởng đấu tranh; “anh với tôi” cùng ra trận đấu giặc để bảo vệ quốc gia quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn đạt tâm đầu ý hợp của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm 1 thời khó khăn. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri âm”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn đấu tranh thành tri âm, về sau biến thành đồng đội! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại 2 từ “đồng đội” làm diễn đạt niềm kiêu hãnh xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động lúc nghĩ về 1 tình bạn đẹp. Kiêu hãnh về mối tình đồng đội cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng đấu tranh của những người binh nhị vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đấu giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã trình bày sự gắn bó tha thiết của tình tri âm, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng nhưng ấm áp tình tri âm, tình đồng đội đó mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, ko bao giờ có thể quên:
“Ôi núi thẳm rừng sâuTrung đội đã về đâuBiết chăng chiều mưa mauNơi đây chăn giá ngắtNhớ cái rét lúc đầuThấm mối tình Việt Bắc…”(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nhắc đến 2 người đồng đội cùng nhau 1 nỗi nhớ: nhớ ruộng rẫy, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng đượm đà 1 tình quê vơi đầy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân yêu của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu áp dụng, đưa vào thơ rất đặm đà, nói ít nhưng gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang hôm sớm dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?
Hay “người ra lính” vẫn hôm sớm ấp ôm hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả 2 phía chân mây, tình yêu quê hương đã góp phần tạo nên tình đồng đội, làm nên sức mạnh ý thức để người lính vượt qua mọi thách thức gian khó, thảm khốc thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ đó, trong bài thơ “Bao giờ quay về”, Hoàng Trung Thông viết:
“Bấm tay tính buổi anh đi,Mẹ thường vẫn nhắc: biết lúc nào về ?Lúa xanh xanh ngắt chân đê,Anh đi là để giữ quê quán mình.Cây đa bến nước sân đình,Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.Hoa cau thơm ngát đầu nương,Anh đi là giữ tình thương dạt dào.(…) Anh đi 9 đợi mười chờ,Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”
7 câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những cụ thể rất thực phản ảnh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 5 bị thực dân Pháp cai trị, dân chúng ta đã quật khởi đứng lên giành lại đất nước. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… dân chúng ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lăng. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua vô vàn gian khổ: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc thang…. Người lính ra trận “áo vải chân ko đi lùng giặc chinh”, quần áo rách tơi tả, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày…”
Chữ “biết” trong đoạn thơ này tức là nếm trải, cùng chung chịu gian truân thách thức. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” hiện ra trong đoạn thơ như 1 sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng đội đượm đà cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” trình bày thâm thúy ý thức sáng sủa của 2 chiến sĩ, 2 đồng đội. Đoạn thơ được viết dưới bề ngoài liệt kê, xúc cảm từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng chí được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiện, mến thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để khích lệ nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thách thức, “đi đến và làm nên thắng trận”.
Phần cuối bài thơ đánh dấu cảnh 2 người chiến sĩ – 2 đồng đội trong đấu tranh. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Cảnh tượng chiến trận là rừng hoang sương muối. Và, 1 đêm đông cực kỳ lạnh lẽo hoang sơ giữa núi rừng chiến khu. Trong khó khăn thảm khốc, trong căng thẳng “chờ giặc đến”, 2 chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đấy là 1 đêm trăng trên chiến khu, 1 tứ thơ đẹp bất thần hiện ra:
“Đầu súng trăng treo”.
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi mai phục giặc giữa 1 đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lửng lơ trên ko như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu trưng cho vẻ đẹp quốc gia yên bình. Súng mang ý nghĩa trận đấu đấu khó khăn hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là 1 hình ảnh thơ mộng, nói lên trong đấu tranh khó khăn, anh quân nhân vẫn yêu đời, tình đồng đội thêm keo sơn gắn bó, họ cùng ước mong 1 tương lai quốc gia yên bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là 1 thông minh thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi nghìn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ kì ảo. Mượn trăng để tả cái tĩnh mịch của chiến trận, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc đến”. Mọi gian truân căng thẳng của trận đấu sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp diệu huyền, thơ mộng của vầng trăng, và chính đấy cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng đội, tình đấu tranh.
Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị lúc nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng lúc nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng đội của các anh – người lính binh nhị buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ súc tích, mộc mạc như ngôn ngữ của người lính trong hàn ôn, tâm tinh. Phương ngôn thành ngữ, ca dao được Chính Hữu áp dụng rất cởi mở, hình thành chất thơ dung dị, hồn nhiên, đặm đà. Sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng đội” là bài thơ rất lạ mắt viết về anh quân nhân Cụ Hồ – người dân cày mặc áo lính, những người hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là 1 tượng đài chiến sĩ hoa lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Cảm tưởng về bài Đồng đội đầy đủ
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ông tham dự quân đội 5 1947 và mở đầu làm thơ, Chính Hữu viết ko nhiều mà có địa điểm rất xứng đáng trong nền thơ tiên tiến Việt Nam, điển hình là bài thơ ” Đồng đội” có mặt trên thị trường 5 1948 sau lúc Chính Hữu cùng đồng chí vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông 5 1947. Bài thơ đã nhắc đến đến 1 thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh quân nhân cụ Hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đấy là tình đồng đội.
Bài thơ gồm 2 mươi dòng thơ với tiếng nói bình dị giọng điệu rủ rỉ tâm tư xúc cảm dồn nén, ” Đồng đội” ngợi ca tình đồng đội khó khăn có nhau, vào sinh ra tử có nhau của người lính anh quân nhân cụ Hồ, những người dân cày yêu nước đi đánh giặc trong những 5 đầu khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Tới với 7 câu thơ đầu tác giả lý giải về cơ sở tạo nên tình đồng đội, trước nhất tình đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự đồng nhất về cảnh ngô xuất thân nghèo đói.
“Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi đối ứng nhau như lời tâm tư, rủ rỉ về quê hương anh quân nhân. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo đói là nơi” nước mặn đồng chua”, ” đất cày lên sỏi đá”, mượn phương ngôn, thành ngữ để nói về làng quê nơi chôn rau cắt rốn thân thương của mình, Chính Hữu đã khiến cho lời thơ bình dị chất thơ mộc mạc dễ thương như tâm hồn người trai cày đánh giặc.
Chung hoàn cảnh xuất thân những người lính còn chung lý tưởng đấu tranh và độc lập tự do của Tổ Quốc:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Chính điều đấy đã khiến họ từ những người lạ lẫm trở thành thân quen với nhau và trong đội ngũ quân đội cách mệnh.
“Tôi với anh đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau”
Đặc thù tình đồng đội được nảy nở và kết thành bền chặt trong sự chan hòa, san sớt gian khó cũng như thú vui trong cuộc đời người lính.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm”
Trong những đêm trường gió lạnh, những người lính cùng đắp chung chăn, có thể hàn ôn cùng nhau nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, chính vì thế từ những người lạ lẫm họ đã biến thành tri âm.
Sau 6 câu thơ đầu tác giả hạ 1 dòng đặc thù : ” Đồng đội! ” chỉ có 2 chữ và 1 dấu chấm than mà ý nghĩa cực kỳ hàm xúc, nó tạo thành 1 nốt nhấn, nó vang lên như 1 tiếng gọi khẩn thiết, xúc động từ đáy lòng, đây là tình cảm được kết tinh từ mọi xúc cảm, là cao độ của tình bạn, tình người, bắt nguồn từ những tình cảm mang tính truyền thống, cùng lúc cũng là sự gắn kết của bài thơ.
Mười 2 câu thơ tiếp theo là những biểu thị xúc động của tình đồng đội và sức mạnh của tình cảm đó ở người lính, tình đồng đội trước nhất là sự thông cảm sâu sa tâm sự nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân càyCăn nhà ko chớ thây gió lung lay”
Khi tấm chăn chung đắp lại, có bao lăm hàn ôn của người lính được mở ra, họ kể cho nhau nghe chuyện ruộng lương, nhà cửa, người nhà… đấy là những hình ảnh cực kỳ gắn bó với người lính.
Đằng sau thái độ dứt khoát ra đi đó những người lính vẫn gắn bó với quê hương:
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính
Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hoán dụ chỉ những đứa ở hậu phương, là người mẹ già, người vợ, con thơ đang dõi theo, đang nhớ đến người trai cày ra trận, cũng có thể nói đây là nỗi nhớ của người lính đang ấp ôm hình bóng quê hương, bởi những gì giản dị gần gụi nhất là những thứ dễ gợi nhớ gợi thương nhất.
Những dòng thơ tiếp theo vẫn trình bày tình đồng đội 1 cách cảm động, đồng đội đấy là cùng nhau san sớt những thiếu thốn gian khó của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhRét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Tới đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những cụ thể chân thật, đấy là chiếc áo rách, quần vá và đôi chân ko giày, đấy còn là căn bệnh sốt rét rừng mãn tính nhưng người lính phải chịu đựng. tất cả làm nổi trội ko gian thiếu thốn của người lính. Đây cũng là những gian khổ chung của quân và dân ta trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà điều chủ công nhưng Chính Hữu muốn nói ở đây không hề là cái khổ nhưng là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối ứng nhau, cùng với các từ ” tôi” “anh” cùng hiện ra đã góp phần diễn đạt sự san sớt, sự giống nhau trong mọi hoàn cảnh của người lính.
Khó khăn khó khăn thế mà họ vẫn sáng ngời nụ cười sáng sủa” mồm cười buốt giá” và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương ” thương nhau… tay”, hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị mà cực kỳ gợi cảm, nó vừa trình bày tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh của tình cảm đó, hình như chỉ bằng 1 cử chỉ ” tay nắm bàn tay” nhưng người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.
Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng đội, là biểu trưng đẹp của cuộc đời người lính:
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”
Trong bức tranh, nổi trội trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là 3 hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng… Ba hình ảnh này đã hình thành 1 bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước nhất tính hiện thực được trình bày ở ko gian và cảnh huống chi tiết, thời kì: đêm nay, ko gian: rừng hoang sương muối, còn cảnh huống là tình cảnh những người lính: đứng canh bên nhau chờ giặc đến, tất cả đều trình bày sự ác liệt của chiến tranh, chẳng những phải chịu cái rét thấu xương như hàng nghìn mũi kim trâm vào da, thịt nhưng cái chết còn dình dập bên mình bởi có thể trong giây khắc nữa thôi quân địch sẽ nổ súng và biết đâu 1 trong số họ sẽ ngã xuống, mà tình đồng chí đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi gian khổ khó khăn.
Như vậy, bằng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn không giống nhau, tiếng nói cô đọng, hình ảnh thơ giản ị, chân thật vừa mang ý nghĩa biểu trưng, bài thơ đồng đội của Chính Hữu đã trình bày 1 cách xúc động tình đồng đội đồng chí sâu nặng đượm đà của người lính anh quân nhân cụ hồ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, họ chính là những con người cao hấp dẫn nhất, điển hình cho chủ nghĩa người hùng cách mệnh trong thời đại Hồ Chí Minh.
Cảm nhận bài thơ Đồng Chí hay nhất
Đồng đội là 1 bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những cụ thể, những hình ảnh cực kỳ chân thực, chi tiết nhưng đầy tính sàng lọc, nói chung, bài thơ đã trình bày 1 cách cảm động tình đồng đội gắn bó giữa những người dân cày mặc áo lính, cùng đấu tranh gìn giữ độc lập tự do của Non sông.
Toàn bộ tứ thơ của Đồng đội tăng trưởng quay quanh mối quan hệ giữa các đối tượng tôi và anh. Ở đây, thi sĩ đã hóa thân vào các đối tượng trữ tình cũng là những đồng chí thân thiện với mình để nói lên những tình cảnh, biểu thị những tâm cảnh, tình cảm của họ.
Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ khi mở màn. Họ đều là những người dân cày mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn khó nhọc, gian truân. Những con người khổ nghèo đó vừa được Cách mệnh giải phóng và giờ đây gắn bó đượm đà vì mục tiêu của trận đấu đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mệnh giữa những người dân cày “tứ phương” này cũng được Hồng Nguyên trình bày 1 cách hồn nhiên trong phần mở màn bài Nhớ:
Lũ chúng tôiBọn người tứ xứGặp nhau hồi chưa biết chữQuen nhau từ buổi 1, haiSúng bắn chưa quenQuân sự mươi bàiLòng vẫn cười vui kháng chiến…
Từ “đôi người lạ lẫm” tới “thành đôi tri âm”, từ “chẳng hứa hẹn quen nhau” tới “đêm rét chung chăn” đấy hình như là sự gặp mặt, gắn bó ngẫu nhiên mà thực lại rất thiên nhiên và dĩ nhiên bởi những con người này cùng đấu tranh, hi sinh vì 1 lí tưởng cao cả. Hai câu thơ nhưng chứa đựng, kết hợp được nhiều hình ảnh sinh động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn, thành đôi tri âm
Chính Hữu đã dùng 1 từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn đạt 1 tình cảm rất mới. Chữ “tri âm” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri âm này là tình đồng đội. Chính vì vậy, từ “đồng đội” được tác giả được tác giả tách riêng thành 1 dòng thơ. Đây là cụ thể nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết 2 phần của bài thơ.
Có thể xem dòng thơ cực kỳ ngắn này là 1 tiếng gọi khẩn thiết, nghiêm trang từ đáy lòng những người dân cày mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong 1 quan hệ mới (Sau chữ “đồng đội” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đấy, cần trả nó về tình cảnh lịch sử chi tiết. Trước Cách mệnh thành công ở thời gian tỉnh ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng kết đoàn hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những 5 đầu kháng chiến gian truân lúc toàn dân đang nhất loạt đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà cảm tử cho Non sông quyết sinh” ở những 5 tháng, những thời đIểm đó, nghĩa đồng bào, đồng đội thật thiêng liêng và cực kỳ được trân trọng (Chữ “đồng đội” chúng ta dùng hiện giờ hẳn khác). Thuộc tính thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người dân cày vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mệnh giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì vậy, chúng ta thêm hiểu tại sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng đội nhưng ko lấy 1 cái tên khác, chả hạn “đồng chí”. Quả thật, chữ “đồng đội” hàm nghĩa cao rộng hơn, nhưng cũng sâu hơn. Nghĩa đồng đội, 1 mặt, là cơ sở, là nền móng; mặt khác, cũng là then chốt, là thực chất của tình đồng chí. Về cuối cuộc kháng chiến 9 5, lúc chứng kiến chủ nghĩa người hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, chi tiết thêm tình đồng chí:
5 mươi 6 ngày đêm bom gầm pháo dộiTa mới hiểu thế nào là đồng độiĐồng đội taLà hớp nước uống chungNắm cơm bẻ nửaLà chia nhau 1 trưa nắng, 1 chiều mưaChia khắp anh em 1 mẩu tin nhàChia nhau đứng trong hào chiến đấu chật hẹpChia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…(Giá từng thước đất)
Đấy là 1 bước chi tiết hóa tình đồng đội. Còn khi này (1948) ở buổi đầu kháng chiến cái cần nhấn mạnh là sự , là sự cùng chí hướng trong thách thức gian truân. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành 1 dòng thơ của từ “đồng đội” mang ý nghĩa đó.
Vừa dồn tụ xúc cảm ở 6 dòng thơ trước, dòng thơ chỉ 1 từ này cùng lúc vào vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các đối tượng trữ tình (tôi và anh) từ “đồng đội” còn như khắc ấn 1 định nghĩa mới mẻ nhưng cả phần sau của bài thơ là sự vỡ vạc, sự nhận thức nhau rõ hơn để thông cảm, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng đội đó là gửi lại ruộng rẫy, từ giã giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” gìn giữ độc lập tự do của quốc gia. Đồng đội đó là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng đội đó là sự sẻ chia và khích lệ nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay
Tình đồng đội đượm đà làm cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những cụ thể bé nhất của đời sống. Điều đáng để mắt là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đấy mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu tới cuối bài Đồng đội, trong cặp đối tượng trữ tình, bao giờ anh cũng hiện ra trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người lạ lẫm”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt tiếng nói đó phải chăng phản ảnh 1 nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm thâm thúy giữa những người cùng hoàn cảnh, cùng bổn phận.
Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng khó khăn, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, đó mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mệnh. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu 1 cụ thể cực kỳ chi tiết. Từng cụ thể cô gọn đó cứ tuần tự khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tư, cảm xúc ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Nghe đâu đây là cao trào của xúc cảm mến thương trong người chiến sĩ. Thương nhau cực kỳ trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng rắn rỏi, nghị lực cực kỳ bởi cử chỉ đó chỉ có lúc những người chiến sĩ đã tinh thần đầy đủ về tình cảnh của quốc gia kháng chiến, về bổn phận cao cả của mình. Cử chỉ đó hình như chứa đựng sự tự tinh thần, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và căn dặn nhau. Tình cảm ko xốc nổi nhưng đằm sâu.
Chính giai đoạn nhận thức rõ về tình đồng đội, chính bước tăng trưởng cao của tình mến thương lẫn nhau như trên đã dẫn tới đoạn xong xuôi lạ mắt:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Ba câu thơ nhưng nói được rất nhiều điều. Đấy là tình cảnh sẵn sàng đấu tranh đặc điểm ko gian và thời kì: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đấy là tình đồng đội keo sơn trong khó khăn, là ý thức chuẩn bị vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc đến”. Đấy là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của trận đấu đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Không phải trùng hợp nhưng sau này Chính Hữu đặt tên cho 1 tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không hề thiên nhiên nhưng trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội dân chúng thường xuất hiện ảnh ảnh này. Nhà thơ đã thông minh được 1 hình ảnh thật lạ mắt, giàu sức nói chung. Đầu súng trình bày của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo hình ảnh của tự nhiên trong mát, của cuộc sống yên bình. Sự liên kết thiên nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trắng trong,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của trận đấu tranh yêu nước. Chúng ta bền gan đấu tranh, khó khăn hi sinh chính vì vầng trăng đó, vì cuộc sống yên bình. Hình ảnh và nhịp độ thơ này lửng lơ, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có khó khăn mà cũng có thú vui, vừa là thực vừa mang tính biểu trưng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mệnh đặm đà thật khó phân tách hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những xúc cảm lạc điệu buổi đầu, tới Đồng đội, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp 1 bài thơ hoàn hảo về người chiến sĩ quân đội dân chúng Việt Nam. Giả dụ trước đấy chưa đầy 1 5, anh quân nhân kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giày vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” ngày giờ đây anh hiện ra trong Đồng đội với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân ko giày và với tâm hồn mộc mạc, thắm thiết, đầy yêu thương trong khó khăn. Đồng đội cũng trình bày rõ cá tính thơ lạ mắt của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng cụ thể, từng hình ảnh để vừa chi tiết, vừa giàu tính nói chung, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa 1 tâm hồn tha thiết, da diết tự bên trong.
Cảm nhận của em về bài thơ Đồng Chí
“Đồng đội”! Ôi tiếng gọi sao nhưng thân yêu khẩn thiết quá. Nó biểu thị thật đầy đủ tình đồng chí của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những 5 1948 của thời gian kháng Pháp. Cảm thu được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống đấu tranh đó, Chính Hữu, 1 thi sĩ – người chiến sĩ cách mệnh đã xúc động viết bài thơ Đồng đội. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao xúc cảm trong lòng người đọc.
Cả bài thơ trình bày rõ tình đồng chí keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội dân chúng trong cuộc sống đấu tranh khó khăn của thời gian kháng chiến 9 5. Họ là những người xuất thân từ dân chúng lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê heo hút không giống nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ lạ lẫm bỗng biến thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người đó bằng những lời thơ thật cảm động:
Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đáAnh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì dị ở những người chiến sĩ. Đấy là sự tăng trưởng của tình cảm cách mệnh trong quân đội ta. Từ những con người rất “lạ lẫm” trong đời sống lại biến thành những đồng đội rất thân yêu trong đấu tranh. Nhà thơ đã chọn lọc những cụ thể, những hình ảnh thơ rất chân thật để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo đói “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “lạ lẫm”. Thật là thú vị, thi sĩ ko nói 2 người lạ lẫm nhưng là “đôi người lạ lẫm”. “Đôi” là chỉ 2 nhân vật cùng đi với nhau. “Đôi người lạ lẫm” tức là 2 người cùng đi với nhau nhưng mà là lạ lẫm. Vì vậy ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời cách biệt, những con người chẳng hứa hẹn quen nhau nói lên cả 1 sự lạ lẫm trong ko gian và tình cảm. Nhưng lúc tham dự kháng chiến, những con người lạ lẫm đó đã cùng nhau đấu tranh, cùng chịu đựng khó khăn, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì vậy, họ biến thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng đội”:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm. Đồng đội!
Câu thơ vừa tả chân vừa mang ý nghĩa biểu tượng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả chân những giờ khắc bên nhau cùng đấu tranh cùng lúc hình ảnh đó còn biểu tượng cho sự nghiệp đấu tranh chung, lí tưởng cách mệnh chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người lạ lẫm” đó đã nảy nở 1 tình cảm mới lúc họ cùng đấu tranh, cùng 1 lý tưởng mập lao. Tình cảm đó thật thân yêu, thật khẩn thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhõm bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng đội” lại được tách thành 1 câu riêng, 1 đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác lạ đó, tác giả làm nổi trội ý thơ. Nó như 1 nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc chạnh lòng người. Câu thơ chỉ có 1 từ: “Đồng đội” – 1 ngôn ngữ thiêng liêng. “ Đồng đội”, 1 sự cảm kích về nhiều thay đổi kì dị trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng đội!”.
Tình cảm đó lại được biểu thị chi tiết trong cuộc sống đấu tranh. Những khi cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng rẫy anh gởi bạn thân cày”, “gian nhà ko, chớ thây gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tư đó, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có 1 quê hương, có những kỉ niệm thân thiện gắn bó với quê nhà và lúc ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu khó khăn bên nhau. Trong gian khó khó nhọc họ lại tìm được thú vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng đội. Làm sao các anh có thể quên được những khi cùng chịu với nhau “từng cơn ớn lạnh”, những khi “ rét run người vừng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống quân nhân nghèo khó nhọc mà ko thiếu thú vui. Dẫu “ áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì mồm vẫn cười tươi. Bằng những cụ thể rất thực, thi sĩ đã mô tả rõ nét cuộc sống đấu tranh khó khăn và sự gắn bó của tình đồng chí keo sơn. Tình cảm thật tình khẩn thiết đó ko diễn đạt bằng lời nhưng mà trình bày bằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất tài sản, không hề là những lời hoa mĩ khoa trương, những người chiến sĩ hiểu hiện tình đồng đội là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt đó đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng đội. Đoạn thơ với nhiều nét tả chân cụ thể nhưng ko trần truồng, vẫn gợi cảm nhớ hình ảnh “anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” mà ko biết làm sao, chỉ biết âm thầm “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu thị tình cảm đáng quý như thế.
Mối tình đồng đội lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo.
Câu thơ vừa tả chân vừa mang nét biểu tượng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lửng lơ giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Cùng lúc hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đấy là sự liên kết giữa văn pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính đấu tranh lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa nhà thơ. Đầy là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tình cảm trắng trong của người chiến sĩ. Mối tình đồng đội, đang nẩy nở, vươn cao, rạng ngời từ cuộc đời đấu tranh. Hình ảnh thơ thật lạ mắt, gây xúc động bất thần, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục tiêu lí tưởng đấu tranh và mối tình đồng đội thiêng liêng của anh quân nhân Cụ Hồ.
Toàn bộ bài thơ bằng tiếng nói cô đọng, hình ảnh chân thật gợi tả có sức nói chung cao. Chính Hữu đã cho ta thấy rõ giai đoạn tăng trưởng của 1 tình cảm cách mệnh trong quân đội. Ở đây, thi sĩ đã xây dựng hình ảnh thư từ những cụ thể thực của cuộc sống trong đời thường những người chiến sĩ, ko khoa trương, ko lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đấy hình thành sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ ghi lại 1 bước đột phá mới trong bí quyết sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong công đoạn chống Pháp.
Đồng đội! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những xúc cảm dạt dào. Chúng ta đã cảm thu được mối tình đồng đội đặm đà đó qua những lời thơ nhẹ nhõm khẩn thiết như bài hát tâm tư của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã chiến thắng vang dội, trang sử vàng đã sang qua bao lăm công đoạn mới, thế mà mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng đội ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh quân nhân Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân yêu trong những lời thơ của Chính Hữu.
Cảm nhận về bài thơ Đồng đội của Chính Hữu
Đồng đội của thi sĩ Chính Hữu là 1 bài thơ hay viết về người lính.Với giọng thơ bình dị, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu được phác họa đầy tính chân thật giản dị, mà vẫn toát lên vẻ bi hùng, hào hùng của những người người hùng của dân tộc.
Bài thơ ngợi ca tình cảm đồng đội, đồng chí trong khó khăn có nhau san sớt với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm nom nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi gian khổ thách thức có thể xảy ra mà nhờ có tình cảm đồng đội nhưng họ ko cảm thấy độc thân trống vắng.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Trong 2 câu thơ này hình ảnh những người lính được đến từ những vùng quê nghèo không giống nhau, 4 phương trời chẳng hứa hẹn nhưng quen. Họ cùng tụ hội ở đây dưới ngọn cờ của cách mệnh, bởi tình yêu quê hương quốc gia. Họ có chung 1 lý tưởng lớn lao muốn giải phóng quê hương khỏi bóng quân địch.
Từ những con người hoàn toàn lạ lẫm mà họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng dưới lá cờ của non sông. Họ đến nơi đây cùng chung 1 mơ ước, 1 ý chí, ý thức, 1 tiêu chí cố gắng. Đấy chính là hướng nòng súng của mình đến những đối phương để bảo vệ quê hương và những người nhà yêu nơi quê nhà đang chìm trong khó khăn, lam lũ bởi sự giày xéo của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu đến, bóc lột cai trị quốc gia ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm bầy tớ, bắt quốc gia ta phải sống cảnh thực dân địa lầm than.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí!”
Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, trình bày họ có chung 1 tiêu chí đấu tranh, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có 1 đối phương chung của toàn dân tộc. Những người lính thân thương của chúng ta ra đi lúc tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão mập lao, tình yêu quê hương phệ mập. Họ chuẩn bị cống hiến trái tim và thân xác để bảo vệ dân tộc.
Tình yêu quê hương quốc gia mập hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn toan lo trằn trọc, mà họ cố gắng ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương quốc gia.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà ko chớ thây gió lung lay,Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân ko giày…”
Những người dân cày từ khắp các vùng miền của non sông, ngôn ngữ không giống nhau, phong tục tập quán không giống nhau, tình cảnh sống không giống nhau. Nhưng tất cả đã góp sức tuổi xanh, sức lực trí óc của mình để bảo vệ cho được mảnh đất quê hương.
Họ ra đi lúc tuổi đời còn đang xuân xanh phất phới, tâm hồn còn đang ngập tràn tâm huyết, dòng máu đang chảy trong người họ ấm hot những mơ ước khao khát của tuổi xanh.Các anh ra đi có những người con chưa 1 lần cầm tay cô gái mình thích thú, chưa 1 lần rung động. Nhưng lúc non sông cần thì tất cả chuẩn bị lên đường đấu tranh.
Họ ra đi tương tự, ko tiếc tuổi xuân của mình chỉ với 1 mơ ước, 1 ước vọng bảo vệ cho được non sông thiêng liêng, với ý thức “cảm tử cho non sông quyết sinh”. Những hy sinh khó khăn của các anh, thiên hạ sau vẫn còn ghi nhớ mãi, công huân trời biển của các anh ko khoảnh khắc nào non sông quên ơn.
“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.
Những câu thơ này trình bày sự tinh tế của Chính Hữu lúc tác giả đã sử dụng hình ảnh cực kỳ nghệ thuật “đầu súng trăng treo”. Chính Hữu đã tinh tế lúc vẽ lên 1 bức tranh giữa 1 cái cực kỳ lãng mạn đậm chất thơ đấy chính là ánh trăng, với 1 thứ biểu tượng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh cực kỳ sinh động, tươi đẹp trình bày tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ. Đấy là hình ảnh thơ mộng nói lên ý thức anh dũng của người lính, trong khó khăn mà họ vẫn yêu đời, vẫn lãng mạn
Bài thơ “Đồng đội” vừa mang vẻ đẹp bi hùng, người hùng vừa trình bày sự giản dị, mộc mạc của người chiến sĩ trong chiến tranh. Tác giả Chính Hữu đã phác họa lên hình ảnh người lính với tâm hồn thanh cao, lãng mạn, mà cũng đầy chất người hùng, bi hùng.
Cảm tưởng về bài thơ Đồng đội
Nhắc đến thơ ca thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp chẳng thể ko nhắc đến Đồng đội của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc nhưng thâm thúy của những người lính cách mệnh trong những ngày tháng kháng chiến gian khó.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: “Trong bài thơ Đồng đội, tôi muốn nhấn mạnh tới tình đồng chí. Suốt cả trận đấu đấu, chỉ có 1 chỗ dựa hình như là độc nhất vô nhị để còn đó, để đấu tranh là tình đồng đội, tình đồng chí. Đồng đội ở đây là tình đồng chí. Không có đồng chí, tôi chẳng thể nào kết thúc được phận sự, ko có đồng chí, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng đội là lời hàn ôn viết ra để tặng đồng chí, tặng người bạn dân cày của mình.”
Thật vậy, ko gian trữ tình trong Đồng đội giá buốt nhưng ko lạnh lẽo. Hơi ấm tỏa ra từ tỉnh người, từ tình tri âm, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong đội ngũ cách mệnh, đấu tranh cho độc lập, tự do của Non sông, người lính vượt lên trên mọi gian lao bằng sự sẻ chia, đồng tâm hợp lực. Họ sống trong tình đồng chí, nhờ đồng chí, vì đồng chí.
Những người đồng chí đó thường là những người “dân cày mặc áo lính”. Điểm giống nhau về hoàn cảnh xuất thân giúp họ có thể dễ ợt gần gụi, đồng cảm với nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.Anh với tôi đôi người xa lạTừ phương trời chẳng hứa hẹn quen nhau.
Anh và tôi” từ những vùng quê không giống nhau, chỉ giống nhau cái nghèo đói của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người lạ lẫm, từ 2. phương trời lạ lẫm biến thành tri âm:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri âm
Những người “dân cày mặc áo lính” đó gặp nhau trong trận đấu đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong đội ngũ những “người lính Cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách lạ lẫm về ko gian nơi sinh sống của mỗi người. “Súng bên súng” là chung đấu tranh, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: ko chỉ là gần nhau về ko gian nhưng còn chung nhau ý tưởng, lí tưởng” (Trần Đình Sử, Đọc văn chương văn, Sdđ). Tới lúc đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực thụ là anh em 1 nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để trình bày tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gụi, sẻ chia về cái thân mật ấm áp ko gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng đội đặt bắt nguồn từ cơ sở 1 tình tri âm thâm thúy, từ những cái chung giữa “anh” và “tử”.
Câu thơ thứ 7 chỉ gồm 2 tiếng: Đồng đội. Nếu ngoại trừ đầu đề thì đây là lần độc nhất vô nhị 2 tiếng Đồng đội hiện ra trong bài thơ, làm thành riêng 1 câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó ghi lại 1 mốc mới trong mạch xúc cảm và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. 6 câu thơ đầu là tình đồng chí, tri âm, tới đây được nâng lên thành tỉnh đồng đội thiêng liêng. Đồng đội tức là ko chỉ có sự gắn bó thân mật nhưng còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng đội – chiến sĩ hòa mình trong mối giao cảm mập lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng đội thì tức là cùng lúc với nhân cách họ là những con người chi tiết, là những cá thể, họ còn có nhân cách bộ đội, nhân cách của “1 cây” trong sự giao ước của “rừng cây”, tức là từng người ko chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chỉ vừa giản dị, thân mặt lại vừa cao quý, mập lao là vì vậy.
Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những cụ thể, hình ảnh chi tiết tác giả đã trình bày tình cảm thâm thúy của những người đồng đội. Trước hết, họ cùng chung 1 nỗi nhớ quê hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân càyGian nhà ko, chớ thây gió lung layGiếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trong nỗi nhớ quê hương đó có nỗi nhớ ruộng rẫy, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng rẫy cũng như nhớ tay người nào cày xới, ngôi nhà nhớ người trong khi gió lung lay và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ 2 chiều. Nói. “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” cũng là giãi bày nỗi nhớ cồn các về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn túc trực, đậm sâu trong những người đồng đội, cũng là sự đồng cảm của những người đồng chí.
Người lính xuất hiện cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi đất nước song tình quê hương trong mỗi người ko lúc “nào nhạt phai. Và kế bên hình bóng quê hương, điểm tựa kiên cố cho người lính, là đồng chí:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vừng trán ướt mồ hôiÁo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân ko giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng đội trong thời khắc thực tại, lúc họ đang làm nhiệm vụ đấu tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là 1 trong những hình ảnh thơ hấp dẫn nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra 1 bức tranh vừa mang chất chân thật của văn pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của văn pháp lãng mạn.
Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính – khẩu súng – vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong 1 sự liên kết bất thần, đấu súng và vầng trăng như ko còn khoảng cách xa về ko gian, để thành:
“Đầu súng trăng treo”.
Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong mô tả là lãng mạn. Hình ảnh súng biểu tượng cho hành động đấu tranh, ý thức quyết đấu vì quốc gia. Trăng biểu tượng cho cái đẹp thanh bình, thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái. quát về tư thế chủ động, tự tin trong đấu tranh. Nói rộng ra, 2 hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau hình thành biểu trưng về tình thân, ý chí gang thép nhưng bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam, chung nhau hoàn cảnh, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính – những người đồng đội sống, đấu tranh vì sự nghiệp chung của dân tộc, Bài thơ Đồng đội đã trình bày rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và đấu tranh cho hạnh phúc và tự do.

TagsChính Hữu đông chí Văn mẫu lớp 9

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Văn #mẫu #lớp #Cảm #nhận #về #bài #thơ #Đồng #chí #của #Chính #Hữu


#Văn #mẫu #lớp #Cảm #nhận #về #bài #thơ #Đồng #chí #của #Chính #Hữu

Vik News

Vik News

Viknews Việt Nam chuyên chia sẻ những kiến thức hữu ích về hôn nhân – gia đình, làm đẹp, kinh nghiệm làm mẹ, chăm sóc dinh dưỡng khi mang thai kỳ, trước sau sinh, son môi , sữa ong chúa, nhà cửa nội thất (cửa gỗ, đèn chùm trang trí, bàn ăn, tủ bếp..)……

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button