Văn mẫu lớp 9: Đóng vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Vào vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính gồm dàn ý cụ thể, cùng 7 bài văn mẫu, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều ý nghĩ mới để kể lại bài thơ cô đọng, hàm súc nhất. Nhờ ấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9.
Bài thơ về tiểu đội xe ko kính đã khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn, với tư thế hiên ngang, ý thức sáng sủa, bất chấp mọi gian truân, nguy hiểm. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:
Dàn ý kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
1. Mở bài
– Giới thiệu bản thân: Tôi là người lính Trường Sơn trong những 5 tháng chống Mỹ.
– Công tác chính của tôi là lái những chiếc xe được phủ cành cây để ngụy trang đối phương.
– Dù cho những 5 tháng đấy rất nặng nhọc, thống khổ, chạy xe xuyên hôm sớm. Ngày chạy xe, đêm cũng ngủ tại xe, những chiếc xe ko kính đấy biến thành những người tri kỉ tri kỷ đi cùng cùng tôi trên chặng đường tranh đấu còn nhiều khó khăn.
2. Thân bài
– Trong những 5 tháng đấy, bom đạn của bọn Mỹ có sức công phá quá gớm ghê nên hầu như chiếc xe nào của binh đoàn cũng rụng và vỡ hết kính. Ví như còn sót lại thì cũng chỉ là những mảnh kính vỡ. Cửa giờ trống hoác nên tự nhiên như ùa vào để những người lính như chúng tôi hưởng thụ vậy. Dù có gian nguy, nặng nhọc nhưng mà chúng tôi vẫn thung dung anh dũng, vẫn hàng ngày lái những chiếc xe tiếp tế ra chiến trận vì non sông thân thương.
– Từ những ô cửa kính vỡ, chúng tôi được hưởng thụ những cơn gió bụi làm mắt cay, ngắm sao trời và những cánh chim bay vụt qua. Đời lính gắn liền với những tuyến đường dài rộng trước mặt, chúng tôi chạy trên những tuyến đường đấy với niềm tin và sứ mạng giải phóng non sông.
– Nói đời lính có những kỷ niệm đẹp chẳng bao giờ sai, lúc những cơn bụi trắng xóa làm chúng tôi bạc trắng cả mái đầu hay những cơn mưa xối xả qua cửa kính vỡ chẳng làm chúng tôi khó chịu hay bất an. Không những vậy, chúng tôi còn trêu nhau là những người già, tiếp diễn chặng hành trình của mình.
– Dù cho có mưa bom bão đạn nguy hiểm, qua những cửa kính vỡ tưởng chừng thêm phần gian truân đấy, chúng tôi lại có thể dễ ợt bắt tay với những người đồng đội trong tiểu đội, Sống trong cộng đồng cùng tranh đấu, cùng sinh sống, chúng tôi mến thương và kết đoàn với nhau.
– Bếp Hoàng Cầm- tượng trưng của bếp dã chiến, nấu bếp ko khói để đối phương ko phát hiện. Chúng tôi đoàn viên như gia đình bên bếp Hoàng Cầm để trò chuyện, ăn uống.
– Dù cho có muôn trùng gian truân, chúng tôi vẫn luôn đi cùng cùng nhau trên những chiếc xe ko kính để giải phóng dân tộc
3. Kết bài
– Cảm tưởng tổng quát của người lính về chiến tranh hiện tại
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 1
Bữa nay tôi có cơ hội cùng đồng chí cũ về thăm chiến trận cũ. Kí ức những 5 đỏ lửa 1968 như ùa về trong tâm não tôi. Đồng chí tôi người còn sống, người mãi nằm lại chiến trận. 1 cơn gió lùa qua tôi, mang theo câu chuyện về những ngày tháng khó khăn nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Vào những 5 tháng tranh đấu chống Mỹ tàn khốc, lúc cả nước hướng về miền Nam cật ruột. Chúng tôi là lớp thanh niên, tạm gác bút vở sang 1 bên, nộp đơn xin tòng ngũ. Quyết ko để miền Nam đơn côi trong trận đánh này, tôi đã vào chiến trận, mong muốn đóng góp công lao cùng cả dân tộc “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Vào chiến trận, mỗi người 1 nhiệm vụ chuyên dụng cho cho kháng chiến. Tôi là chiến sĩ lái xe, nhiệm vụ chính là bảo đảm người, vũ khí và tiếp viện từ Miền Bắc vào chiến trận. Hằng ngày, trên chiếc xe của mình, tôi rong ruổi trên khắp chiến trận Miền Nam, tiếp viện thuốc thang, quân tư trang tới những vị trí thiết yếu.
Những 5 tháng tàn khốc 1968. Mỹ như trút bom xuống Trường Sơn, muốn dập tắt ý thức tranh đấu của cả dân tộc. Thế nhưng mà bom Mỹ có đội xuống thế nào, cả dân tộc cũng ko nao lòng. Chúng tôi bên chiếc xe của mình, 1 chiếc xe cực kỳ “ đặc trưng” bảo đảm giao nhận hàng hóa kịp chuyên dụng cho chiến trận.
Dưới áp lực của bom, hàng loạt kính xe của tôi bị vỡ hết. Dù nhiều lần được thay kính mới, nhưng mà chỉ vài ngày lại bị bom Mỹ giật rung cho bể hết kính. Cánh lái xe chúng tôi cũng ko thiết thay kính mới thêm lần nào nữa. Đó thế nhưng kính vỡ cũng có cái hay của nó nhé!
Ngồi trong buồng lái, tôi cảm nhận từng cơn gió lùa vào, xua đi những cơn mệt mỏi, buồn ngủ đang hiện hữu. Con đường hằng ngày nhưng tôi cùng đồng chí đang đi, tuy có bị bom Mỹ hủy hoại dữ dội. Thế nhưng mà tôi chẳng phải nao núng, bởi lẽ tuyến đường đấy còn là lý tưởng cách mệnh, là tuyến đường chính nghĩa cho hòa bình dân tộc.
Ban đêm, cánh lái xe chúng tôi lấy sao trời soi sáng, bánh xe vẫn lăn đều trong đêm. Thật ra 1 phần chúng tôi cũng ko dám mở đèn nhiều, vì sợ tụi Mỹ sẽ thấy nhưng thả bom. Điều kiện hà khắc là thế, nhưng mà chúng tôi ko bao giờ bỏ cuộc hay ca cẩm.
Có những hôm trời nắng, đường khô gió bụi bay vào cay cả mắt, khi bước xuống xe áo quần, mặt mày đều đầy bụi. Những hôm mưa rừng xối xả, ngồi trong xe nhưng vẫn ướt như thường. Cái lạnh của rừng Trường Sơn có thỉnh thoảng như muốn quật ngã chúng tôi.
Cái lạnh thấm vào áo quần, da thịt, lạnh tới run người. Thế nhưng mà chúng tôi vẫn ko ân cần, áo quần ướt đã có gió hong khô. Cánh lái xe chúng tôi đã quá quen với cuộc sống nặng nhọc và hà khắc này.
Thế nhưng mà, vì Miền Nam vì hòa bình dân tộc chúng tôi đã có những khi “ cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”, “cái nhành cây gạt mối riêng tây”. Những nỗi thương nhớ, mong nhớ đều dằn lòng lại. Tuy ở đây chỉ có núi rừng, chuyến xe vào ra liên tiếp, thế nhưng mà tình đồng chí đồng đội của chúng tôi vẫn luôn gắn bó.
Công tác liên tiếp, xe chạy ngày đêm để kịp tiếp viện cho Miền Nam, cánh lái xe chúng tôi chỉ có thể chào nhau bằng cái bắt tay vội vã qua ô cửa xe đã vỡ. Cái bắt tay như tiếp thêm sức mạnh, nhưng mà thỉnh thoảng cũng là cái bắt tay rốt cuộc. Chiến tranh nhưng, cái chết luôn nằm ở trên đầu, nhưng mà chúng tôi vẫn chẳng phải nao lòng.
với cánh lái xe chúng tôi, thú vui là lúc hàng hóa giao tới nơi an toàn. Từ trong bom đạn, trông thấy đồng chí của mình vẫn nguyên lành, cùng ngồi với nhau bên bếp Hoàng Cầm. Bữa ăn của lính tuy thanh đạm, đơn sơ nhưng mà đầy tình cảm.
Chúng tôi ngồi lại kể chuyện nhau nghe, kể về bức thư nhà, ruộng đồng, mùa vụ. Kể về những tuyến đường đã đi qua, những nặng nhọc gian truân nhưng chúng tôi gặp phải. Rồi chúng tôi cùng nuôi bự kì vọng về hòa bình, độc lập vào 1 ngày gần nhất. Chiếc võng mắc vội nằm ghé lưng bên bìa rừng, tôi tranh thủ chợp mắt cho chuyến xe sắp đến.
Tuy ko trực tiếp cầm súng tranh đấu như những đồng chí khác. Những lái xe chúng tôi vẫn đóng góp công lao và có khi cả tính mệnh. Không biết bao lăm đồng chí của tôi đã nằm lại trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn. Thế nhưng mà, chuyến xe tiếp viện cho Miền Nam ko lúc nào bị đứt mạch. Bởi lẽ những chuyến hàng là cả niềm tin và sức mạnh nhưng đồng bào Miền Bắc gửi gắm cho chiến trận Miền Nam.
Chiếc xe cho dù ko thùng, ko kính, bị bom Mỹ khiến cho lệch lạc. Thế nhưng mà cũng thể nào làm suy dời ý chí của chúng tôi. Chiếc xe của chúng tôi vẫn luôn chạy vì Miền Nam phía trước và cũng vì trong xe vẫn có “ 1 trái tim”.
Chiến tranh đã lùi xa, ngày bữa nay tôi cùng đồng chí của mình tìm về chiến trận xưa. Những chiếc xe 5 nào đã nằm yên trong viện cơ quan sưu tầm, tiểu đội xe ko kính 5 nào người còn, kẻ nằm mãi nơi Trường Sơn. Tôi cùng đồng chí xưa vẫn chẳng thể nào quên 5 tháng khó khăn nhưng mà hào hùng đấy. Tôi luôn mong muốn lớp thanh niên hiện tại, luôn tiếp bước và thắp sáng tuyến đường nhưng lớp cha anh đã ngã xuống để giữ giàng.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 2
Tiểu đội xe chuyển vận của tôi có đặc điểm chung là ko chiếc xe nào có kính. Qua bao trận mưa bom trên đường chở hàng ra tiền phương, kính xe đã vỡ hết cả. Cánh lái xe chúng tôi vẫn thung dung ngồi trong buồng lái, tha hồ nhìn đất, nhìn trời và nhìn thẳng tuyến đường hướng vào chiến trận miền Nam đang đánh Mỹ.
Không có kính, gió thả phanh ùa vào buồng lái. Gió thổi làm mắt cay xè nhưng mà không hề chi, chúng tôi vẫn nhìn rõ tuyến đường đất đỏ như son như đang chạy thẳng vào tim. Ban ngày thì những cánh chim rừng, đêm hôm thì những tại sao sáng như đột ngột sa vào, ùa vào buồng lái.
Lái xe trên đường Trường Sơn là công tác vô cùng gian truân, gian nguy. Trời mưa, ngồi trong xe nhưng ướt đầm như ngoài trời. Mặc! Chúng tôi vẫn cho xe chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Mưa mãi thì cũng phải tạnh. Gió lùa, áo quần sẽ mau khô thôi. Mưa đã cực, nắng cũng chẳng sướng gì hơn. Đất Trường Sơn khô rang dưới cái nắng như nung. Đoàn xe đi qua, bụi đỏ tung mù trời giống cơn lốc cuốn. Quần áo, đầu tóc chúng tôi bụi phun trắng xoá, trông chẳng khác người già. Bụi mặc bụi, xe vẫn cứ chạy. Tới cánh rừng nào ấy có suối, có khe, chúng tôi ngừng lại rửa mặt, nhìn nhau anh nọ cười anh kia mặt lấm, tiếng cười ha ha vang rộn, trẻ trung, yêu đời biết mấy!
Trcửa ải qua những 5 tháng chiến tranh tàn khốc, những chiếc xe từ trong bom rơi đã về đây họp thành tiểu đội xe ko kính. Trên đường Trường Sơn, chúng tôi gặp nhau, những cái bắt tay thật chặt nồng ấm tình đồng chí, truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tất cả đều trình bày phấn đấu giải phóng miền Nam, hợp nhất tổ quốc, tiến hành ý nguyện khẩn thiết của Bác Hồ – vị Cha già dân tộc, trước khi Người đi xa.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 3
Trong buổi gặp mặt nhân ngày quân đội dân chúng Việt Nam, tôi đã trùng hợp gặp lại sức bạn xưa cùng chung tiểu đội trên những chiếc xe ko kính ở con đường Trường Sơn làm nhiệm vụ vận tải tiếp viện cho miền Nam. Chúng tôi tay bắt mặt mừng và mọi người đề nghị tôi kể lại những tháng ngày đấy.
Tôi còn nhớ trên tuyến đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc nhưng chúng tôi lái trên những chiếc xe lại là nơi bom đạn giật tung dữ dội tàn khốc. Nhiệm vụ của tôi là vận tải lương thực, vũ khí, bom đạn của Mỹ đã biến những chiếc xe ko còn có kính. Tôi đã đích thực thông suốt hơn về những gian khó thống khổ nhưng chúng tôi đã phải chịu ngày chịu đêm ko lùi bước tôi vẫn thung dung lái xe đi đến những chặng đường, luôn nghe âm thanh của bom liên tiếp gào thét. Trên 1 chiếc xe ko kính, tôi đã trông thấy được trời, trông thấy cả đất và những ánh sao đêm. Tôi nhìn thẳng về phía trước, vì phía đấy chính là mai sau của tổ quốc, là miền nam cật ruột quê hương tôi.
Tôi vẫn lái dù bụi có phun làm mái tóc phát triển thành trắng xóa, chúng tôi vẫn không lo nghĩ phì phà điếu thuốc và cất tiếng cười lúc nhìn mặt nhau. Khó khăn khó khăn hay bom đạn của đối phương không thể nào làm tôi nản lòng, thoái chí. Những chiếc xe ko kính cứ tiếp diễn đi và đi trên những con đường ra trận, mưa tuôn mưa xối ướt hết cả áo nhưng mà tôi vẫn phấn đấu lái trăm cây số nữa vượt qua những chặng đường gian nguy để bảo đảm an toàn cho mọi thứ tôi đang vận tải. Và tôi nghĩ lúc mưa dừng, có gió lùa vào rồi thì sẽ mau khô thôi.
Càng đi càng đi, tôi càng gặp được nhiều anh em đồng chí của mình dù bom đạn của Mỹ vẫn giật tung sát bên tai. Cái chết luôn rình rập nhưng mà tôi vẫn luôn sáng sủa yêu đời. Ngày đấy cũng có người hy sinh, nên thành ra, lúc tôi gặp lại sức bạn 5 xưa thì mọi kí ức kỉ niệm chợt ùa về khiến tôi ham mê kể lại.
Những phút giây hiếm hoi lúc gặp lại đồng chí, cái bắt tay qua cửa kính bể rồi làm tôi đượm đà hơn. Những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, mọi cái bát cái đũa dùng chung như 1 đại gia đình bự của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi phút giây được ngơi nghỉ trên những chiếc võng mắc cheo leo ngoài đường, kể nhau nghe mọi sự tàn khốc trên những tuyến đường đã đi qua. Càng kể tôi càng thấy yêu đồng chí mình hơn, bom đạn của Mỹ có thể hạ xuống trong khi chúng tôi đang làm nhiệm vụ. Chiếc xe ko chỉ mất kính, cơ mà còn ko có đèn, thùng xe thì rách xước nhưng mà những thiếu thốn này vẫn không thể cản được chúng tôi tiến đến miền Nam cật ruột. Và những chuyến hàng của tôi cũng đã góp phần hình thành thắng lợi của dân tộc.
Tới hiện thời tôi vẫn còn rất kiêu hãnh vì đã lái những chiếc xe ko kính làm nhiệm vụ tiếp viện cho miền Nam, góp phần ko bé vào trận đấu đấu giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Tôi vẫn ko quên nhắc nhở con cháu của mình là phải hàm ân các lứa tuổi trước, phải luôn hoài tưởng những con người đã hi sinh “Uống nước nhớ nguồn”.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 4
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội dân chúng Việt Nam – ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử tranh đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và chuyện trò. Trong đoàn đại biểu ấy, tôi bắt gặp 1 người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã tới gặp và có cuộc trò chuyện thú vị với ông.
Các bạn có nhẽ chẳng thể tưởng tượng được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi 5 xưa giờ đĩnh đạc, tôn nghiêm trong bộ binh phục mới. Ông có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng 5, gương mặt tuy đã già dặn nhưng mà vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua chuyện trò, có thể thấy ông là người rất vui tính, đon đả, đặc trưng là lúc ông kể cho tôi về cuộc đời người lính trên con đường Trường Sơn 5 đấy. Ông kể rằng vào 5 1969 là – 5 nhưng Mỹ đánh phá rất tàn khốc trên con đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ phấn đấu phá cho bằng được con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Nam – Bắc. Chúng thả hàng nghìn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng ngàn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ tuyến đường. Tuy Mỹ đánh phá tàn khốc thật, nhưng mà những đoàn xe chuyển vận vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên tuyến đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trận miền Nam. Kể 1 khi, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
– Cháu thấy đó, trong trận đấu đấu chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, gian truân. Những 5 tháng tàn khốc ấy đã khắc hoạ cả 1 thời đoạn lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên con đường Trường Sơn giặc Mỹ đánh phá cực kỳ tàn khốc; bom Mỹ cày xới đất đai, phá hỏng những tuyến đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao lăm những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng ko vì “bom rơi đạn lạc” tương tự nhưng chúng ta lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền phương, đi trong bóng đêm theo sự chỉ dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát xuất hiện, ta chuyển vận qua rừng, bọn chúng đã thả bom để ko cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc trưng hơn cả là đoàn xe chuyển vận ko có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy gian nguy như thế nhưng chúng ta vẫn kết thúc tốt nhiệm vụ đánh Mỹ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mỹ với bao lăm thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng mà chúng ta đã vượt qua những khó khăn để đánh chúng..
Ông ngừng lại 1 khi rồi lại kể tiếp:
– Ta còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, ko có vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao lăm là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế nhưng ko người nào cần rửa, phì phà châm điếu thuốc hút ngang nhiên, người nào nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng là tương tự nhưng mà tới khi mưa thì còn khổ hơn, trời mưa như trút nước thế nhưng mà chúng ta vẫn cầm tay lái lái 1 cách tích cực hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi áo quần lại khô thôi. Xe ko kính cũng là 1 thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, ko gian bao la hào phóng như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều trông thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim.Mỗi lúc giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, chúng ta nghĩ từng chung bát chung đũa nghĩa là 1 gia đình, là người trong 1 nhà rồi đó cháu ạ.
Được nghe ông kể những nặng nhọc đấy tôi thật bái phục hơn tình đồng đội đồng chí, lòng can đảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm ước mơ trên toàn cầu ko còn chiến tranh để cuộc sống mãi yên bình.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 5
Tôi vừa đưa chiếc xe đạp vào khoảng sân hẹp thì đã nghe vọng ra tiếng cười giòn giã của bố tôi và 1 vị khách. Đấy vững chắc là 1 vị khách quý bởi vì ít lúc có sự ầm ĩ, nhộn nhịp như thế ở người cha hiền từ nhưng mà khi nào cũng lặng thầm của tôi.
Tôi bước vội vào nhà. Bố tôi cùng người khách hướng ánh nhìn rạng rỡ, trìu mến đón tôi:
– Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học hồi trung học với bố, lại cùng bố tòng ngũ.Bác là chiến sĩ lái xe Trường Sơn 5 xưa đó con ạ!
Bác Trực trạc tuổi bố tôi. Khuôn mặt bác cương nghị nhưng mà lại rất phúc hậu. Đôi mắt tuy đã hằn nhiều vết chân chim nhưng mà vẫn ánh lên những tia vui vẻ và trìu mến. Tôi có đang nằm mộng ko nhỉ? Tôi vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật. Những lời thơ, những lời cô giảng và hình ảnh người chiến sĩ lái xe can đảm, kiên định cứ đọng mãi trong tâm não tôi. Giờ đây, tôi đang được đứng trước 1 người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thực sự. Thật là 1 may mắn ko ngờ. Tôi rối rít:
– Bố ơi! Bác ơi! Con có thể được ngồi với bố và bác 1 lát để biết thêm về những tháng ngày tranh đấu 5 xưa được ko ạ?
Bác cười và đáp:
– Sao lại ko? Đấy là khoảng thời kì cuốn hút nhất của bố cháu và bác.
– Thưa bác, bác chính là người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, người lính nhưng cháu đã được học trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật, phải ko bác?
– Ồ, bài thơ đấy nổi danh lắm cháu à. Ngày ấy, có nhẽ lính lái xe Trường Sơn ít người nào là ko biết bài thơ đấy. Nó nói hộ phần nào khát vọng tranh đấu, những khó khăn, lòng can đảm và sự sáng sủa của những người lính như bác.
– Chính bác cũng đã từng lái những chiếc xe ko kính đấy phải ko ạ?
– Không phải “đã từng” đâu cháu ạ. Nhưng là bác luôn lái những chiếc xe bị xước, bị va đập, bị bom đạn khiến cho rơi vỡ, lệch lạc những bộ phận bên ngoài như thế. Chiến tranh nhưng cháu!
Để bác kể rõ hơn cho cháu hiểu nhé. Ngày ấy, bác lái xe tải, cùng đồng chí chuyển vận lương thực, thuốc thang, khí tài… vào chiến trận miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng trời, khó khăn lắm cháu ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng muốn san phẳng tất cả, cắt đứt tuyến đường huyết mạch nối tiếp Bắc Nam đấy. Tiểu đội xe của bác ban sơ được trang bị toàn xe mới để chuyên dụng cho chiến trận. Khi ấy, xe có kính như vô vàn chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn nứt, tiêu hao hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt nhiều cũng dằng dịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên lành cháu à.
Tôi vẫn còn tò mò, tiếp diễn hỏi bố:
– Lái xe ko kính, ko mui, ko đèn như thế chắc gian nguy lắm bác nhỉ?
Bác sôi nổi tiếp lời:
– Nguy hiểm lắm, cái sống cái chết khi nào cũng trong tấc gang. Lái xe ko kính thì mối gian nguy gần nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt, vào áo quần. Bụi chi chít tới mức mắt cay xè, chẳng thể mở nổi. Khi đấy, râu, tóc, áo quần và cả xe rực lên 1 màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất thần. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt đầm nước mưa. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp trăm nghìn lần. Thế nhưng mà, những người lính lái xe như bác ko bao giờ ngừng lại, luôn phải tranh thủ tránh giờ cao điểm cháu ạ. Cũng vì xe ko kính nên mưa gió vứt vào cabin đủ thứ, nào là lá rừng, nào là cành cây gãy… Bác đã bao lần bị cành cây cứa vào mặt, vào tay cầm tay lái, đau rát cực kỳ. Gian khổ là thế đó cháu. Mỗi chuyến chở hàng về đến đích thật sự là 1 kỳ tích. Vậy nhưng ký tích vẫn luôn hiện ra.
Bác mỉm cười, gương mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và kiêu hãnh. Lời bác kể như chất chứa bao tâm huyết, bao sôi nổi của 1 thời tuổi xanh nơi chiến trận. Bác nghe đâu đang được sống lại những giây phút lịch sử đấy. Không hiểu sao ngay khi này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đấy chính là 1 thực tiễn ở chiến trận ngày đấy. Thế nhưng, những người lính cụ Hồ vẫn chứa chan sáng sủa, yêu đời, và tin cậy vào 1 mai sau thắng lợi.
Tôi chợt thấy bác Trực trầm tư, ánh mắt xa xăm như đang lạc trong dòng hồi ức. Còn bố tôi thì ngồi lặng thầm, gương mặt đầy vẻ xúc động. Bác Trực chợt nói:
– Xe ko kính thế cơ mà hay cháu ạ. Gặp bạn cũ, gặp đồng chí, gặp đồng hương đều tay bắt mặt mừng qua ô kính vỡ. Giữa đại nghìn mênh mang, bác chợt thấy lòng mình ấm lại vì được tranh đấu kế bên những đồng đội mến thương.
Giọng bác chợt rung lên, đầy xúc động:
– Cháu chẳng thể hiểu tình đồng đội thiêng liêng, quý giá thế nào với người lính các bác đâu. Ngừng xe, ghé vào 1 bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là thấy không xa lạ như anh em 1 nhà. Dù giây lát nữa thôi, mỗi người sẽ đi mỗi hướng, có lúc chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa chiến trận tàn khốc. Bác và 3 cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng mà bao lăm đồng chí của bác đã ngã xuống. Có 1 đồng chí của bác đã hy sinh ngay sau tay lái vì phấn đấu lái xe vượt qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Ngày đấy, khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc ghi trong tim những người lính lái xe. Dù có hy sinh, các bác vẫn phấn đấu bảo vệ xe và hàng.
Bác chợt yên lặng. Không khí cả căn phòng bỗng chốc phát triển thành thật nghiêm trang.
Trong tôi bỗng trào dâng 1 xúc cảm thật kỳ lạ, vừa bái phục, vừa kiêu hãnh. Ngày bữa nay tôi đã hiểu thêm rất nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết tới cuộc sống êm ả trong khoảng tay ấm áp, che chở của gia đình, thầy cô trong 1 tổ quốc hòa bình. Đấy là thành tựu của bao lứa tuổi cha anh đã nặng nhọc, hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác tôi và những người tôi chưa từng gặp gỡ. Tôi phải thật trân trọng cuộc sống hòa bình này và phấn đấu trau dồi, hoàn thiện để góp phần xây dựng tổ quốc thêm tươi đẹp trong thời đại mới.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 6
Tôi là người lính lái xe trên con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Bắc và Nam. Trong suốt những 5 tháng kháng chiến chống Mỹ khó khăn, chúng tôi – những người lính lái xe vẫn giữ vững tay đua để kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ: vận tải lương thực, vũ khí và đạn dược vào chiến trận thảm khốc.
Trên quãng đường Trường Sơn, những chiếc xe vốn nguyên lành lại bị bom đạn của đối phương hủy diệt, biến thành những chiếc xe ko kính. Nhưng chúng tôi – những người lính lái xe vẫn thung dung ngồi trước buông lái. Những chiếc xe ko kính còn tạo điều kiện cho chúng tôi thêm hòa hợp với tự nhiên hơn. Từ gió trời, tuyến đường tới cánh chim giống như đang ùa vào buồng lái để chào hỏi.
Những chiếc xe ko kính làm cho hành trình thêm gian truân. Đấy là bụi đường làm mái tóc trắng như người già. Chúng tôi chẳng cần rửa, cứ thế phì phà châm điếu thuốc và nhìn nhau cười vui vẻ. Đấy là mưa tuôn, mưa xối giống như đang đứng ở ngoài trời. Chúng tôi chẳng cần thay áo, cứ thế lái xe vài trăm cây số, để gió lùa vào rồi áo cũng sẽ khô.
Những chiếc xe ko kính đã họp thành 1 tiểu đội xe ko kính. Chúng tôi gặp mặt trên hành trình đấy. Tất cả giống như những người bạn lâu ngày ko gặp, bắt tay nhau và mỉm cười chào hỏi. Rồi tới lúc đêm về, dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời. Cùng nhau ăn uống, cùng nhau chuyện trò giống như 1 đại gia đình. Tình cảm đồng chí giữa những người lính lái xe cũng giống như tình thân – thâm thúy và đượm đà.
Dù những bộ phận quan trọng nhất của chiếc xe đều bị tàn phá. Xe ko có kính, ko có cả mui xe và hỏng cả đèn xe. Nhưng những chiếc xe vẫn cứ băng băng trên khắp mọi nẻo đường Trường Sơn. Bởi vì trong xe có 1 “1 trái tim” – trái tim yêu đời với tâm huyết cách mệnh của người lính lái xe. Hình ảnh “1 trái tim” biểu tượng cho lòng căm phẫn giặc thâm thúy của chúng tôi. Cùng lúc nó còn là tượng trưng cho tâm huyết cách mệnh, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 7
Bước vào 5 1969, trận đấu thảm khốc và căng thẳng hơn. Sau thất bại trong chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ khởi đầu thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Thực hiện chế độ này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trận Đông Dương và tăng mạnh tuyển mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Cùng lúc, chúng thực hiện các chiến lược bình định trên toàn miền Nam. 1 ko khí khủng bố cực kỳ căng thẳng bao trùm lên khắp miền bờ cõi. Nhiệm vụ tranh đấu giải phóng miền Nam cũng đương đầu với những gian truân cực kỳ bự. Không để miền Nam đơn côi trong trận đấu đấu tàn khốc với đối phương, quân và dân miền Bắc gắng vô cùng mình tiếp viện và cùng quân dân miền Nam quả cảm tranh đấu.
Tôi là 1 chiến sĩ lái xe. Cuối 5 1968, tôi được điều động về đại đội 1 oto chuyển vận, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của đại đội là vận tải những chuyến hàng vào chiến trận miền Nam. Không những đưa hàng hóa tới tận chiến trận, chuyên dụng cho mau chóng và kịp thời cho trận đấu đấu, chúng tôi còn phải hỗ trợ quân trang, quân dụng, thuốc thang và những thứ thiết yếu khác nhưng quân và dân miền Nam đang cần.
Trong những 5 gian truân đấy, dân chúng miền Bắc đã dốc vô cùng mình vì miền Nam cật ruột. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và hợp nhất tổ quốc nhưng bà con miền Bắc đã ko quản ngại khó khăn hy sinh. Tầng lớp thanh niên đã tích cực lên đường tham dự tranh đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hẹn xong nhiệm vụ với non sông mới trở về.
Bao nhiêu nông sản nhận được, dân chúng chỉ giữ lại phần ít. Phần bự còn lại gửi vào miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn thu được sự cung cấp của các nước anh em ủng hộ trận đấu. Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe nối đuôi nhau ngược xuôi trên con đường Trường Sơn, sôi động như mùa hội. Tấm tâm thành của dân chúng miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng ko hết.
5 đấy, phát hiện con đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ thực hiện đánh phá tàn khốc. Chúng rải thảm bom đạn nhằm chặn đứng dòng chi viện. Con đường bị cày xới dữ dội. Rất nhiều đồng chí của tôi đã hy sinh. Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của đối phương ko chiếc nào còn nguyên lành. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom. Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị biến dạng gớm ghê.
Thế nhưng mà, chúng tôi chẳng phải nản chí. Các đồng đội cổ vũ nhắc nhở nhau cùng hẹn sẽ giữ vững tay đua, kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì ta sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền phương. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ diệu kì nối tiếp miền Nam, miền Bắc. Nơi đâu cũng sôi động bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập hợp về đây để bảo vệ con đường, bảo vệ huyết quản của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe ko kính, cả bầu trời như tới gần với tôi. Dù trời ko có gió nhưng mà hề xe chạy thì gió cứ thế nhưng lùa vào ồ ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả 2 mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng ngược hẳn lên như vừa được bôi 1 thứ keo dán tóc nào ấy. Ban đêm xe chạy, sao sáng vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì ko bị kính che mờ. Những cánh chim trời nghịch ngợm cứ bay ngay buồng lái. Đôi lúc chúng làm tôi khiếp vía vì ngỡ bóng tàu bay của địch.
Sợ nhất vẫn là bụi đường. Không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tóc lẫn mặt mày của chúng tôi như trát 1 lớp phấn trắng. Chỉ còn 2 con mắt là khác màu thôi. Mỗi lần ngơi nghỉ, nhìn các chiến sĩ người nào cũng bạc phết nhưng cười ngây ngất. Hết bụi thì tới mưa. Mưa rừng trường Sơn đột ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước, cơn mưa từ đâu phía bên kia núi ào ào kéo tới trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế nhưng tuôn, nhưng xối vào. Ngồi trong xe nhưng tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng mưa cứ kệ mưa. Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải ngơi nghỉ luộm thuộm. Cuộc sống như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi nhưng quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng chí khắp muôn phương cùng nhau tụ hội. Những đoàn xe nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và cổ vũ nhau. Tôi chúc mừng các anh đã kết thúc nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về cổ vũ và cầu chúc tôi may mắn.
Những cuộc ngừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái tim. Dù ở những đơn vị không giống nhau, từ nhiều vùng quê của tổ quốc, nhưng mà gặp nhau ở đây, chúng bếp lửa hồng, chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng đội cả.
Đường Trường Sơn được xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thử thách mọi ý thức. Những con dốc cao tới nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt qua con dốc cực kỳ hiểm trở. Con dốc lừng lững thử thách các đồng đội lái xe đã từng vận tải hàng hóa trên cung đường này.
Đêm đấy trời mưa lớn, đường bị xói lở nhiều. Đại đội trưởng lệnh chúng tôi ngừng lại tìm nơi ẩn náu. Tới đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng chúng tôi đang ở giữa vùng trống, ko có nơi ẩn náu an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm trời cứ mưa thế này, tới đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn xe vượt dốc. Sau phút nghĩ suy, đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe tiên phong. Lấy hết tĩnh tâm, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy đến. Biết mặt đất trơn, tôi phấn đấu giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe kiên cố. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vượt qua nhưng mà chẳng thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng mà mặt đường như rải dầu trơn nhoài tuột. Đuôi xe lệch về 1 bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là con vực sâu tới ngàn mét.
“Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm mong có 1 sức mạnh nào ấy nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội trưởng thét bự: “Cho xe lao lên mau!”. Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy vô cùng đạp mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng rào rào 2 bên. Tiếng xe gầm thét dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc. Tôi hít 1 hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay tay lái đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi cũng đưa xe lên tới đỉnh dốc an toàn. Bước xuống xe, tôi thở phào nhẹ nhàng.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng chí mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động cực kỳ. Thì ra, lúc thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá kê. Mỗi người 1 hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này tới hòn khác cho tới lúc xe lên hẳn trên dốc. Đêm đấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ lanh lợi của đồng chí, kịp đưa xe về nơi trú ẩn an toàn.
Tĩnh tâm, anh dũng, xử lý các cảnh huống nhanh lẹ, chuẩn xác là những nhân tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe chiến trận ko chỉ tĩnh tâm vững vàng trong buồng lái, nhưng cần cả mưu lược, cởi mở trong việc xử lý các cảnh huống trên thực địa. Có lúc còn phải biết làm “tư vấn” đề nghị với chỉ đạo cấp trên các phương án khai thông lúc tắc đường. Phcửa ải biết giao kèo tác chiến với công binh, với quân nhân phòng ko, phải thông suốt mưu mô và quy luật hoạt động của đối phương trên trời dưới đất để đưa hàng đến đích. Đấy là lời dạy của đại đội trưởng nhưng tôi còn nhớ mãi cho đến hiện thời.
Chiến tranh là phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi lúc lên đường. Người đồng chí thân nhất, đã cùng tôi vào sinh ra tử bao lăm trận đã hy sinh. Anh ra đi như 1 người lính thật sự, chẳng phải hối tiếc.
Hôm đấy, sau 1 đêm vận tải, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi tàu bay ném bom. Dứt đợt oanh tạc của địch, 3 đồng đội công binh gọi anh đi rà soát hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng mà anh ko chịu. Tới nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả bom hất tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng chí cực kỳ tiếc thương.
Mến thương, căm phẫn chính là động lực thôi thúc chúng tôi khao khát giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Để mong ước này biến thành hiện thực, chỉ có 1 cách độc nhất vô nhị là vững vàng tay đua, cầm chắc tay lái. Thành ra thách thức càng ngày càng tăng cao chúng tôi lại càng phấn đấu thắng lợi.
Không thể nhớ hết bao lăm cảnh huống trên đường vận tải. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong khoảng lượn của tàu bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh tạc bắn phá các trọng tâm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Dù đối phương rình rập, đường đi gian nguy, dù có bao lăm hy sinh đi chăng nữa nhưng mà ko gì thể cản bước đoàn xe chạy đến.
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe trĩu nặng chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy đến. Tất cả vì miền Nam cật ruột. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và hợp nhất tổ quốc của dân tộc. Mỗi lúc ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ tới các anh, nhớ tới nhiệm vụ thiêng liêng nhưng nhắc mình giữ vững tay đua, sống và tranh đấu xứng đáng với những người đã mãi mãi ra đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này.
.
Xem thêm thông tin Văn mẫu lớp 9: Đóng vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Văn mẫu lớp 9: Vào vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
Vào vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính gồm dàn ý cụ thể, cùng 7 bài văn mẫu, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều ý nghĩ mới để kể lại bài thơ cô đọng, hàm súc nhất. Nhờ ấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9.
Bài thơ về tiểu đội xe ko kính đã khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn, với tư thế hiên ngang, ý thức sáng sủa, bất chấp mọi gian truân, nguy hiểm. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:
Dàn ý kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
1. Mở bài
– Giới thiệu bản thân: Tôi là người lính Trường Sơn trong những 5 tháng chống Mỹ.
– Công tác chính của tôi là lái những chiếc xe được phủ cành cây để ngụy trang đối phương.
– Dù cho những 5 tháng đấy rất nặng nhọc, thống khổ, chạy xe xuyên hôm sớm. Ngày chạy xe, đêm cũng ngủ tại xe, những chiếc xe ko kính đấy biến thành những người tri kỉ tri kỷ đi cùng cùng tôi trên chặng đường tranh đấu còn nhiều khó khăn.
2. Thân bài
– Trong những 5 tháng đấy, bom đạn của bọn Mỹ có sức công phá quá gớm ghê nên hầu như chiếc xe nào của binh đoàn cũng rụng và vỡ hết kính. Ví như còn sót lại thì cũng chỉ là những mảnh kính vỡ. Cửa giờ trống hoác nên tự nhiên như ùa vào để những người lính như chúng tôi hưởng thụ vậy. Dù có gian nguy, nặng nhọc nhưng mà chúng tôi vẫn thung dung anh dũng, vẫn hàng ngày lái những chiếc xe tiếp tế ra chiến trận vì non sông thân thương.
– Từ những ô cửa kính vỡ, chúng tôi được hưởng thụ những cơn gió bụi làm mắt cay, ngắm sao trời và những cánh chim bay vụt qua. Đời lính gắn liền với những tuyến đường dài rộng trước mặt, chúng tôi chạy trên những tuyến đường đấy với niềm tin và sứ mạng giải phóng non sông.
– Nói đời lính có những kỷ niệm đẹp chẳng bao giờ sai, lúc những cơn bụi trắng xóa làm chúng tôi bạc trắng cả mái đầu hay những cơn mưa xối xả qua cửa kính vỡ chẳng làm chúng tôi khó chịu hay bất an. Không những vậy, chúng tôi còn trêu nhau là những người già, tiếp diễn chặng hành trình của mình.
– Dù cho có mưa bom bão đạn nguy hiểm, qua những cửa kính vỡ tưởng chừng thêm phần gian truân đấy, chúng tôi lại có thể dễ ợt bắt tay với những người đồng đội trong tiểu đội, Sống trong cộng đồng cùng tranh đấu, cùng sinh sống, chúng tôi mến thương và kết đoàn với nhau.
– Bếp Hoàng Cầm- tượng trưng của bếp dã chiến, nấu bếp ko khói để đối phương ko phát hiện. Chúng tôi đoàn viên như gia đình bên bếp Hoàng Cầm để trò chuyện, ăn uống.
– Dù cho có muôn trùng gian truân, chúng tôi vẫn luôn đi cùng cùng nhau trên những chiếc xe ko kính để giải phóng dân tộc
3. Kết bài
– Cảm tưởng tổng quát của người lính về chiến tranh hiện tại
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 1
Bữa nay tôi có cơ hội cùng đồng chí cũ về thăm chiến trận cũ. Kí ức những 5 đỏ lửa 1968 như ùa về trong tâm não tôi. Đồng chí tôi người còn sống, người mãi nằm lại chiến trận. 1 cơn gió lùa qua tôi, mang theo câu chuyện về những ngày tháng khó khăn nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Vào những 5 tháng tranh đấu chống Mỹ tàn khốc, lúc cả nước hướng về miền Nam cật ruột. Chúng tôi là lớp thanh niên, tạm gác bút vở sang 1 bên, nộp đơn xin tòng ngũ. Quyết ko để miền Nam đơn côi trong trận đánh này, tôi đã vào chiến trận, mong muốn đóng góp công lao cùng cả dân tộc “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Vào chiến trận, mỗi người 1 nhiệm vụ chuyên dụng cho cho kháng chiến. Tôi là chiến sĩ lái xe, nhiệm vụ chính là bảo đảm người, vũ khí và tiếp viện từ Miền Bắc vào chiến trận. Hằng ngày, trên chiếc xe của mình, tôi rong ruổi trên khắp chiến trận Miền Nam, tiếp viện thuốc thang, quân tư trang tới những vị trí thiết yếu.
Những 5 tháng tàn khốc 1968. Mỹ như trút bom xuống Trường Sơn, muốn dập tắt ý thức tranh đấu của cả dân tộc. Thế nhưng mà bom Mỹ có đội xuống thế nào, cả dân tộc cũng ko nao lòng. Chúng tôi bên chiếc xe của mình, 1 chiếc xe cực kỳ “ đặc trưng” bảo đảm giao nhận hàng hóa kịp chuyên dụng cho chiến trận.
Dưới áp lực của bom, hàng loạt kính xe của tôi bị vỡ hết. Dù nhiều lần được thay kính mới, nhưng mà chỉ vài ngày lại bị bom Mỹ giật rung cho bể hết kính. Cánh lái xe chúng tôi cũng ko thiết thay kính mới thêm lần nào nữa. Đó thế nhưng kính vỡ cũng có cái hay của nó nhé!
Ngồi trong buồng lái, tôi cảm nhận từng cơn gió lùa vào, xua đi những cơn mệt mỏi, buồn ngủ đang hiện hữu. Con đường hằng ngày nhưng tôi cùng đồng chí đang đi, tuy có bị bom Mỹ hủy hoại dữ dội. Thế nhưng mà tôi chẳng phải nao núng, bởi lẽ tuyến đường đấy còn là lý tưởng cách mệnh, là tuyến đường chính nghĩa cho hòa bình dân tộc.
Ban đêm, cánh lái xe chúng tôi lấy sao trời soi sáng, bánh xe vẫn lăn đều trong đêm. Thật ra 1 phần chúng tôi cũng ko dám mở đèn nhiều, vì sợ tụi Mỹ sẽ thấy nhưng thả bom. Điều kiện hà khắc là thế, nhưng mà chúng tôi ko bao giờ bỏ cuộc hay ca cẩm.
Có những hôm trời nắng, đường khô gió bụi bay vào cay cả mắt, khi bước xuống xe áo quần, mặt mày đều đầy bụi. Những hôm mưa rừng xối xả, ngồi trong xe nhưng vẫn ướt như thường. Cái lạnh của rừng Trường Sơn có thỉnh thoảng như muốn quật ngã chúng tôi.
Cái lạnh thấm vào áo quần, da thịt, lạnh tới run người. Thế nhưng mà chúng tôi vẫn ko ân cần, áo quần ướt đã có gió hong khô. Cánh lái xe chúng tôi đã quá quen với cuộc sống nặng nhọc và hà khắc này.
Thế nhưng mà, vì Miền Nam vì hòa bình dân tộc chúng tôi đã có những khi “ cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”, “cái nhành cây gạt mối riêng tây”. Những nỗi thương nhớ, mong nhớ đều dằn lòng lại. Tuy ở đây chỉ có núi rừng, chuyến xe vào ra liên tiếp, thế nhưng mà tình đồng chí đồng đội của chúng tôi vẫn luôn gắn bó.
Công tác liên tiếp, xe chạy ngày đêm để kịp tiếp viện cho Miền Nam, cánh lái xe chúng tôi chỉ có thể chào nhau bằng cái bắt tay vội vã qua ô cửa xe đã vỡ. Cái bắt tay như tiếp thêm sức mạnh, nhưng mà thỉnh thoảng cũng là cái bắt tay rốt cuộc. Chiến tranh nhưng, cái chết luôn nằm ở trên đầu, nhưng mà chúng tôi vẫn chẳng phải nao lòng.
với cánh lái xe chúng tôi, thú vui là lúc hàng hóa giao tới nơi an toàn. Từ trong bom đạn, trông thấy đồng chí của mình vẫn nguyên lành, cùng ngồi với nhau bên bếp Hoàng Cầm. Bữa ăn của lính tuy thanh đạm, đơn sơ nhưng mà đầy tình cảm.
Chúng tôi ngồi lại kể chuyện nhau nghe, kể về bức thư nhà, ruộng đồng, mùa vụ. Kể về những tuyến đường đã đi qua, những nặng nhọc gian truân nhưng chúng tôi gặp phải. Rồi chúng tôi cùng nuôi bự kì vọng về hòa bình, độc lập vào 1 ngày gần nhất. Chiếc võng mắc vội nằm ghé lưng bên bìa rừng, tôi tranh thủ chợp mắt cho chuyến xe sắp đến.
Tuy ko trực tiếp cầm súng tranh đấu như những đồng chí khác. Những lái xe chúng tôi vẫn đóng góp công lao và có khi cả tính mệnh. Không biết bao lăm đồng chí của tôi đã nằm lại trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn. Thế nhưng mà, chuyến xe tiếp viện cho Miền Nam ko lúc nào bị đứt mạch. Bởi lẽ những chuyến hàng là cả niềm tin và sức mạnh nhưng đồng bào Miền Bắc gửi gắm cho chiến trận Miền Nam.
Chiếc xe cho dù ko thùng, ko kính, bị bom Mỹ khiến cho lệch lạc. Thế nhưng mà cũng thể nào làm suy dời ý chí của chúng tôi. Chiếc xe của chúng tôi vẫn luôn chạy vì Miền Nam phía trước và cũng vì trong xe vẫn có “ 1 trái tim”.
Chiến tranh đã lùi xa, ngày bữa nay tôi cùng đồng chí của mình tìm về chiến trận xưa. Những chiếc xe 5 nào đã nằm yên trong viện cơ quan sưu tầm, tiểu đội xe ko kính 5 nào người còn, kẻ nằm mãi nơi Trường Sơn. Tôi cùng đồng chí xưa vẫn chẳng thể nào quên 5 tháng khó khăn nhưng mà hào hùng đấy. Tôi luôn mong muốn lớp thanh niên hiện tại, luôn tiếp bước và thắp sáng tuyến đường nhưng lớp cha anh đã ngã xuống để giữ giàng.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 2
Tiểu đội xe chuyển vận của tôi có đặc điểm chung là ko chiếc xe nào có kính. Qua bao trận mưa bom trên đường chở hàng ra tiền phương, kính xe đã vỡ hết cả. Cánh lái xe chúng tôi vẫn thung dung ngồi trong buồng lái, tha hồ nhìn đất, nhìn trời và nhìn thẳng tuyến đường hướng vào chiến trận miền Nam đang đánh Mỹ.
Không có kính, gió thả phanh ùa vào buồng lái. Gió thổi làm mắt cay xè nhưng mà không hề chi, chúng tôi vẫn nhìn rõ tuyến đường đất đỏ như son như đang chạy thẳng vào tim. Ban ngày thì những cánh chim rừng, đêm hôm thì những tại sao sáng như đột ngột sa vào, ùa vào buồng lái.
Lái xe trên đường Trường Sơn là công tác vô cùng gian truân, gian nguy. Trời mưa, ngồi trong xe nhưng ướt đầm như ngoài trời. Mặc! Chúng tôi vẫn cho xe chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Mưa mãi thì cũng phải tạnh. Gió lùa, áo quần sẽ mau khô thôi. Mưa đã cực, nắng cũng chẳng sướng gì hơn. Đất Trường Sơn khô rang dưới cái nắng như nung. Đoàn xe đi qua, bụi đỏ tung mù trời giống cơn lốc cuốn. Quần áo, đầu tóc chúng tôi bụi phun trắng xoá, trông chẳng khác người già. Bụi mặc bụi, xe vẫn cứ chạy. Tới cánh rừng nào ấy có suối, có khe, chúng tôi ngừng lại rửa mặt, nhìn nhau anh nọ cười anh kia mặt lấm, tiếng cười ha ha vang rộn, trẻ trung, yêu đời biết mấy!
Trcửa ải qua những 5 tháng chiến tranh tàn khốc, những chiếc xe từ trong bom rơi đã về đây họp thành tiểu đội xe ko kính. Trên đường Trường Sơn, chúng tôi gặp nhau, những cái bắt tay thật chặt nồng ấm tình đồng chí, truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tất cả đều trình bày phấn đấu giải phóng miền Nam, hợp nhất tổ quốc, tiến hành ý nguyện khẩn thiết của Bác Hồ – vị Cha già dân tộc, trước khi Người đi xa.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 3
Trong buổi gặp mặt nhân ngày quân đội dân chúng Việt Nam, tôi đã trùng hợp gặp lại sức bạn xưa cùng chung tiểu đội trên những chiếc xe ko kính ở con đường Trường Sơn làm nhiệm vụ vận tải tiếp viện cho miền Nam. Chúng tôi tay bắt mặt mừng và mọi người đề nghị tôi kể lại những tháng ngày đấy.
Tôi còn nhớ trên tuyến đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc nhưng chúng tôi lái trên những chiếc xe lại là nơi bom đạn giật tung dữ dội tàn khốc. Nhiệm vụ của tôi là vận tải lương thực, vũ khí, bom đạn của Mỹ đã biến những chiếc xe ko còn có kính. Tôi đã đích thực thông suốt hơn về những gian khó thống khổ nhưng chúng tôi đã phải chịu ngày chịu đêm ko lùi bước tôi vẫn thung dung lái xe đi đến những chặng đường, luôn nghe âm thanh của bom liên tiếp gào thét. Trên 1 chiếc xe ko kính, tôi đã trông thấy được trời, trông thấy cả đất và những ánh sao đêm. Tôi nhìn thẳng về phía trước, vì phía đấy chính là mai sau của tổ quốc, là miền nam cật ruột quê hương tôi.
Tôi vẫn lái dù bụi có phun làm mái tóc phát triển thành trắng xóa, chúng tôi vẫn không lo nghĩ phì phà điếu thuốc và cất tiếng cười lúc nhìn mặt nhau. Khó khăn khó khăn hay bom đạn của đối phương không thể nào làm tôi nản lòng, thoái chí. Những chiếc xe ko kính cứ tiếp diễn đi và đi trên những con đường ra trận, mưa tuôn mưa xối ướt hết cả áo nhưng mà tôi vẫn phấn đấu lái trăm cây số nữa vượt qua những chặng đường gian nguy để bảo đảm an toàn cho mọi thứ tôi đang vận tải. Và tôi nghĩ lúc mưa dừng, có gió lùa vào rồi thì sẽ mau khô thôi.
Càng đi càng đi, tôi càng gặp được nhiều anh em đồng chí của mình dù bom đạn của Mỹ vẫn giật tung sát bên tai. Cái chết luôn rình rập nhưng mà tôi vẫn luôn sáng sủa yêu đời. Ngày đấy cũng có người hy sinh, nên thành ra, lúc tôi gặp lại sức bạn 5 xưa thì mọi kí ức kỉ niệm chợt ùa về khiến tôi ham mê kể lại.
Những phút giây hiếm hoi lúc gặp lại đồng chí, cái bắt tay qua cửa kính bể rồi làm tôi đượm đà hơn. Những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, mọi cái bát cái đũa dùng chung như 1 đại gia đình bự của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi phút giây được ngơi nghỉ trên những chiếc võng mắc cheo leo ngoài đường, kể nhau nghe mọi sự tàn khốc trên những tuyến đường đã đi qua. Càng kể tôi càng thấy yêu đồng chí mình hơn, bom đạn của Mỹ có thể hạ xuống trong khi chúng tôi đang làm nhiệm vụ. Chiếc xe ko chỉ mất kính, cơ mà còn ko có đèn, thùng xe thì rách xước nhưng mà những thiếu thốn này vẫn không thể cản được chúng tôi tiến đến miền Nam cật ruột. Và những chuyến hàng của tôi cũng đã góp phần hình thành thắng lợi của dân tộc.
Tới hiện thời tôi vẫn còn rất kiêu hãnh vì đã lái những chiếc xe ko kính làm nhiệm vụ tiếp viện cho miền Nam, góp phần ko bé vào trận đấu đấu giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Tôi vẫn ko quên nhắc nhở con cháu của mình là phải hàm ân các lứa tuổi trước, phải luôn hoài tưởng những con người đã hi sinh “Uống nước nhớ nguồn”.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 4
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội dân chúng Việt Nam – ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử tranh đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và chuyện trò. Trong đoàn đại biểu ấy, tôi bắt gặp 1 người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã tới gặp và có cuộc trò chuyện thú vị với ông.
Các bạn có nhẽ chẳng thể tưởng tượng được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi 5 xưa giờ đĩnh đạc, tôn nghiêm trong bộ binh phục mới. Ông có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng 5, gương mặt tuy đã già dặn nhưng mà vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua chuyện trò, có thể thấy ông là người rất vui tính, đon đả, đặc trưng là lúc ông kể cho tôi về cuộc đời người lính trên con đường Trường Sơn 5 đấy. Ông kể rằng vào 5 1969 là – 5 nhưng Mỹ đánh phá rất tàn khốc trên con đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ phấn đấu phá cho bằng được con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Nam – Bắc. Chúng thả hàng nghìn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng ngàn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ tuyến đường. Tuy Mỹ đánh phá tàn khốc thật, nhưng mà những đoàn xe chuyển vận vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên tuyến đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trận miền Nam. Kể 1 khi, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
– Cháu thấy đó, trong trận đấu đấu chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, gian truân. Những 5 tháng tàn khốc ấy đã khắc hoạ cả 1 thời đoạn lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên con đường Trường Sơn giặc Mỹ đánh phá cực kỳ tàn khốc; bom Mỹ cày xới đất đai, phá hỏng những tuyến đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao lăm những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng ko vì “bom rơi đạn lạc” tương tự nhưng chúng ta lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền phương, đi trong bóng đêm theo sự chỉ dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát xuất hiện, ta chuyển vận qua rừng, bọn chúng đã thả bom để ko cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc trưng hơn cả là đoàn xe chuyển vận ko có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy gian nguy như thế nhưng chúng ta vẫn kết thúc tốt nhiệm vụ đánh Mỹ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mỹ với bao lăm thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng mà chúng ta đã vượt qua những khó khăn để đánh chúng..
Ông ngừng lại 1 khi rồi lại kể tiếp:
– Ta còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, ko có vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao lăm là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế nhưng ko người nào cần rửa, phì phà châm điếu thuốc hút ngang nhiên, người nào nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng là tương tự nhưng mà tới khi mưa thì còn khổ hơn, trời mưa như trút nước thế nhưng mà chúng ta vẫn cầm tay lái lái 1 cách tích cực hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi áo quần lại khô thôi. Xe ko kính cũng là 1 thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, ko gian bao la hào phóng như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều trông thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim.Mỗi lúc giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, chúng ta nghĩ từng chung bát chung đũa nghĩa là 1 gia đình, là người trong 1 nhà rồi đó cháu ạ.
Được nghe ông kể những nặng nhọc đấy tôi thật bái phục hơn tình đồng đội đồng chí, lòng can đảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm ước mơ trên toàn cầu ko còn chiến tranh để cuộc sống mãi yên bình.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 5
Tôi vừa đưa chiếc xe đạp vào khoảng sân hẹp thì đã nghe vọng ra tiếng cười giòn giã của bố tôi và 1 vị khách. Đấy vững chắc là 1 vị khách quý bởi vì ít lúc có sự ầm ĩ, nhộn nhịp như thế ở người cha hiền từ nhưng mà khi nào cũng lặng thầm của tôi.
Tôi bước vội vào nhà. Bố tôi cùng người khách hướng ánh nhìn rạng rỡ, trìu mến đón tôi:
– Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học hồi trung học với bố, lại cùng bố tòng ngũ.Bác là chiến sĩ lái xe Trường Sơn 5 xưa đó con ạ!
Bác Trực trạc tuổi bố tôi. Khuôn mặt bác cương nghị nhưng mà lại rất phúc hậu. Đôi mắt tuy đã hằn nhiều vết chân chim nhưng mà vẫn ánh lên những tia vui vẻ và trìu mến. Tôi có đang nằm mộng ko nhỉ? Tôi vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật. Những lời thơ, những lời cô giảng và hình ảnh người chiến sĩ lái xe can đảm, kiên định cứ đọng mãi trong tâm não tôi. Giờ đây, tôi đang được đứng trước 1 người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thực sự. Thật là 1 may mắn ko ngờ. Tôi rối rít:
– Bố ơi! Bác ơi! Con có thể được ngồi với bố và bác 1 lát để biết thêm về những tháng ngày tranh đấu 5 xưa được ko ạ?
Bác cười và đáp:
– Sao lại ko? Đấy là khoảng thời kì cuốn hút nhất của bố cháu và bác.
– Thưa bác, bác chính là người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, người lính nhưng cháu đã được học trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật, phải ko bác?
– Ồ, bài thơ đấy nổi danh lắm cháu à. Ngày ấy, có nhẽ lính lái xe Trường Sơn ít người nào là ko biết bài thơ đấy. Nó nói hộ phần nào khát vọng tranh đấu, những khó khăn, lòng can đảm và sự sáng sủa của những người lính như bác.
– Chính bác cũng đã từng lái những chiếc xe ko kính đấy phải ko ạ?
– Không phải “đã từng” đâu cháu ạ. Nhưng là bác luôn lái những chiếc xe bị xước, bị va đập, bị bom đạn khiến cho rơi vỡ, lệch lạc những bộ phận bên ngoài như thế. Chiến tranh nhưng cháu!
Để bác kể rõ hơn cho cháu hiểu nhé. Ngày ấy, bác lái xe tải, cùng đồng chí chuyển vận lương thực, thuốc thang, khí tài… vào chiến trận miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng trời, khó khăn lắm cháu ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng muốn san phẳng tất cả, cắt đứt tuyến đường huyết mạch nối tiếp Bắc Nam đấy. Tiểu đội xe của bác ban sơ được trang bị toàn xe mới để chuyên dụng cho chiến trận. Khi ấy, xe có kính như vô vàn chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn nứt, tiêu hao hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt nhiều cũng dằng dịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên lành cháu à.
Tôi vẫn còn tò mò, tiếp diễn hỏi bố:
– Lái xe ko kính, ko mui, ko đèn như thế chắc gian nguy lắm bác nhỉ?
Bác sôi nổi tiếp lời:
– Nguy hiểm lắm, cái sống cái chết khi nào cũng trong tấc gang. Lái xe ko kính thì mối gian nguy gần nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt, vào áo quần. Bụi chi chít tới mức mắt cay xè, chẳng thể mở nổi. Khi đấy, râu, tóc, áo quần và cả xe rực lên 1 màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất thần. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt đầm nước mưa. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp trăm nghìn lần. Thế nhưng mà, những người lính lái xe như bác ko bao giờ ngừng lại, luôn phải tranh thủ tránh giờ cao điểm cháu ạ. Cũng vì xe ko kính nên mưa gió vứt vào cabin đủ thứ, nào là lá rừng, nào là cành cây gãy… Bác đã bao lần bị cành cây cứa vào mặt, vào tay cầm tay lái, đau rát cực kỳ. Gian khổ là thế đó cháu. Mỗi chuyến chở hàng về đến đích thật sự là 1 kỳ tích. Vậy nhưng ký tích vẫn luôn hiện ra.
Bác mỉm cười, gương mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và kiêu hãnh. Lời bác kể như chất chứa bao tâm huyết, bao sôi nổi của 1 thời tuổi xanh nơi chiến trận. Bác nghe đâu đang được sống lại những giây phút lịch sử đấy. Không hiểu sao ngay khi này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đấy chính là 1 thực tiễn ở chiến trận ngày đấy. Thế nhưng, những người lính cụ Hồ vẫn chứa chan sáng sủa, yêu đời, và tin cậy vào 1 mai sau thắng lợi.
Tôi chợt thấy bác Trực trầm tư, ánh mắt xa xăm như đang lạc trong dòng hồi ức. Còn bố tôi thì ngồi lặng thầm, gương mặt đầy vẻ xúc động. Bác Trực chợt nói:
– Xe ko kính thế cơ mà hay cháu ạ. Gặp bạn cũ, gặp đồng chí, gặp đồng hương đều tay bắt mặt mừng qua ô kính vỡ. Giữa đại nghìn mênh mang, bác chợt thấy lòng mình ấm lại vì được tranh đấu kế bên những đồng đội mến thương.
Giọng bác chợt rung lên, đầy xúc động:
– Cháu chẳng thể hiểu tình đồng đội thiêng liêng, quý giá thế nào với người lính các bác đâu. Ngừng xe, ghé vào 1 bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là thấy không xa lạ như anh em 1 nhà. Dù giây lát nữa thôi, mỗi người sẽ đi mỗi hướng, có lúc chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa chiến trận tàn khốc. Bác và 3 cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng mà bao lăm đồng chí của bác đã ngã xuống. Có 1 đồng chí của bác đã hy sinh ngay sau tay lái vì phấn đấu lái xe vượt qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Ngày đấy, khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc ghi trong tim những người lính lái xe. Dù có hy sinh, các bác vẫn phấn đấu bảo vệ xe và hàng.
Bác chợt yên lặng. Không khí cả căn phòng bỗng chốc phát triển thành thật nghiêm trang.
Trong tôi bỗng trào dâng 1 xúc cảm thật kỳ lạ, vừa bái phục, vừa kiêu hãnh. Ngày bữa nay tôi đã hiểu thêm rất nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết tới cuộc sống êm ả trong khoảng tay ấm áp, che chở của gia đình, thầy cô trong 1 tổ quốc hòa bình. Đấy là thành tựu của bao lứa tuổi cha anh đã nặng nhọc, hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác tôi và những người tôi chưa từng gặp gỡ. Tôi phải thật trân trọng cuộc sống hòa bình này và phấn đấu trau dồi, hoàn thiện để góp phần xây dựng tổ quốc thêm tươi đẹp trong thời đại mới.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 6
Tôi là người lính lái xe trên con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Bắc và Nam. Trong suốt những 5 tháng kháng chiến chống Mỹ khó khăn, chúng tôi – những người lính lái xe vẫn giữ vững tay đua để kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ: vận tải lương thực, vũ khí và đạn dược vào chiến trận thảm khốc.
Trên quãng đường Trường Sơn, những chiếc xe vốn nguyên lành lại bị bom đạn của đối phương hủy diệt, biến thành những chiếc xe ko kính. Nhưng chúng tôi – những người lính lái xe vẫn thung dung ngồi trước buông lái. Những chiếc xe ko kính còn tạo điều kiện cho chúng tôi thêm hòa hợp với tự nhiên hơn. Từ gió trời, tuyến đường tới cánh chim giống như đang ùa vào buồng lái để chào hỏi. Những chiếc xe ko kính làm cho hành trình thêm gian truân. Đấy là bụi đường làm mái tóc trắng như người già. Chúng tôi chẳng cần rửa, cứ thế phì phà châm điếu thuốc và nhìn nhau cười vui vẻ. Đấy là mưa tuôn, mưa xối giống như đang đứng ở ngoài trời. Chúng tôi chẳng cần thay áo, cứ thế lái xe vài trăm cây số, để gió lùa vào rồi áo cũng sẽ khô.
Những chiếc xe ko kính đã họp thành 1 tiểu đội xe ko kính. Chúng tôi gặp mặt trên hành trình đấy. Tất cả giống như những người bạn lâu ngày ko gặp, bắt tay nhau và mỉm cười chào hỏi. Rồi tới lúc đêm về, dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời. Cùng nhau ăn uống, cùng nhau chuyện trò giống như 1 đại gia đình. Tình cảm đồng chí giữa những người lính lái xe cũng giống như tình thân – thâm thúy và đượm đà.
Dù những bộ phận quan trọng nhất của chiếc xe đều bị tàn phá. Xe ko có kính, ko có cả mui xe và hỏng cả đèn xe. Nhưng những chiếc xe vẫn cứ băng băng trên khắp mọi nẻo đường Trường Sơn. Bởi vì trong xe có 1 “1 trái tim” – trái tim yêu đời với tâm huyết cách mệnh của người lính lái xe. Hình ảnh “1 trái tim” biểu tượng cho lòng căm phẫn giặc thâm thúy của chúng tôi. Cùng lúc nó còn là tượng trưng cho tâm huyết cách mệnh, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 7
Bước vào 5 1969, trận đấu thảm khốc và căng thẳng hơn. Sau thất bại trong chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ khởi đầu thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Thực hiện chế độ này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trận Đông Dương và tăng mạnh tuyển mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Cùng lúc, chúng thực hiện các chiến lược bình định trên toàn miền Nam. 1 ko khí khủng bố cực kỳ căng thẳng bao trùm lên khắp miền bờ cõi. Nhiệm vụ tranh đấu giải phóng miền Nam cũng đương đầu với những gian truân cực kỳ bự. Không để miền Nam đơn côi trong trận đấu đấu tàn khốc với đối phương, quân và dân miền Bắc gắng vô cùng mình tiếp viện và cùng quân dân miền Nam quả cảm tranh đấu.
Tôi là 1 chiến sĩ lái xe. Cuối 5 1968, tôi được điều động về đại đội 1 oto chuyển vận, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của đại đội là vận tải những chuyến hàng vào chiến trận miền Nam. Không những đưa hàng hóa tới tận chiến trận, chuyên dụng cho mau chóng và kịp thời cho trận đấu đấu, chúng tôi còn phải hỗ trợ quân trang, quân dụng, thuốc thang và những thứ thiết yếu khác nhưng quân và dân miền Nam đang cần.
Trong những 5 gian truân đấy, dân chúng miền Bắc đã dốc vô cùng mình vì miền Nam cật ruột. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và hợp nhất tổ quốc nhưng bà con miền Bắc đã ko quản ngại khó khăn hy sinh. Tầng lớp thanh niên đã tích cực lên đường tham dự tranh đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hẹn xong nhiệm vụ với non sông mới trở về.
Bao nhiêu nông sản nhận được, dân chúng chỉ giữ lại phần ít. Phần bự còn lại gửi vào miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn thu được sự cung cấp của các nước anh em ủng hộ trận đấu. Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe nối đuôi nhau ngược xuôi trên con đường Trường Sơn, sôi động như mùa hội. Tấm tâm thành của dân chúng miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng ko hết.
5 đấy, phát hiện con đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ thực hiện đánh phá tàn khốc. Chúng rải thảm bom đạn nhằm chặn đứng dòng chi viện. Con đường bị cày xới dữ dội. Rất nhiều đồng chí của tôi đã hy sinh. Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của đối phương ko chiếc nào còn nguyên lành. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom. Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị biến dạng gớm ghê.
Thế nhưng mà, chúng tôi chẳng phải nản chí. Các đồng đội cổ vũ nhắc nhở nhau cùng hẹn sẽ giữ vững tay đua, kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì ta sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền phương. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ diệu kì nối tiếp miền Nam, miền Bắc. Nơi đâu cũng sôi động bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập hợp về đây để bảo vệ con đường, bảo vệ huyết quản của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe ko kính, cả bầu trời như tới gần với tôi. Dù trời ko có gió nhưng mà hề xe chạy thì gió cứ thế nhưng lùa vào ồ ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả 2 mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng ngược hẳn lên như vừa được bôi 1 thứ keo dán tóc nào ấy. Ban đêm xe chạy, sao sáng vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì ko bị kính che mờ. Những cánh chim trời nghịch ngợm cứ bay ngay buồng lái. Đôi lúc chúng làm tôi khiếp vía vì ngỡ bóng tàu bay của địch.
Sợ nhất vẫn là bụi đường. Không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tóc lẫn mặt mày của chúng tôi như trát 1 lớp phấn trắng. Chỉ còn 2 con mắt là khác màu thôi. Mỗi lần ngơi nghỉ, nhìn các chiến sĩ người nào cũng bạc phết nhưng cười ngây ngất. Hết bụi thì tới mưa. Mưa rừng trường Sơn đột ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước, cơn mưa từ đâu phía bên kia núi ào ào kéo tới trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế nhưng tuôn, nhưng xối vào. Ngồi trong xe nhưng tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng mưa cứ kệ mưa. Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải ngơi nghỉ luộm thuộm. Cuộc sống như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi nhưng quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng chí khắp muôn phương cùng nhau tụ hội. Những đoàn xe nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và cổ vũ nhau. Tôi chúc mừng các anh đã kết thúc nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về cổ vũ và cầu chúc tôi may mắn.
Những cuộc ngừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái tim. Dù ở những đơn vị không giống nhau, từ nhiều vùng quê của tổ quốc, nhưng mà gặp nhau ở đây, chúng bếp lửa hồng, chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng đội cả.
Đường Trường Sơn được xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thử thách mọi ý thức. Những con dốc cao tới nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt qua con dốc cực kỳ hiểm trở. Con dốc lừng lững thử thách các đồng đội lái xe đã từng vận tải hàng hóa trên cung đường này.
Đêm đấy trời mưa lớn, đường bị xói lở nhiều. Đại đội trưởng lệnh chúng tôi ngừng lại tìm nơi ẩn náu. Tới đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng chúng tôi đang ở giữa vùng trống, ko có nơi ẩn náu an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm trời cứ mưa thế này, tới đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn xe vượt dốc. Sau phút nghĩ suy, đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe tiên phong. Lấy hết tĩnh tâm, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy đến. Biết mặt đất trơn, tôi phấn đấu giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe kiên cố. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vượt qua nhưng mà chẳng thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng mà mặt đường như rải dầu trơn nhoài tuột. Đuôi xe lệch về 1 bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là con vực sâu tới ngàn mét.
“Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm mong có 1 sức mạnh nào ấy nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội trưởng thét bự: “Cho xe lao lên mau!”. Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy vô cùng đạp mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng rào rào 2 bên. Tiếng xe gầm thét dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc. Tôi hít 1 hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay tay lái đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi cũng đưa xe lên tới đỉnh dốc an toàn. Bước xuống xe, tôi thở phào nhẹ nhàng.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng chí mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động cực kỳ. Thì ra, lúc thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá kê. Mỗi người 1 hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này tới hòn khác cho tới lúc xe lên hẳn trên dốc. Đêm đấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ lanh lợi của đồng chí, kịp đưa xe về nơi trú ẩn an toàn.
Tĩnh tâm, anh dũng, xử lý các cảnh huống nhanh lẹ, chuẩn xác là những nhân tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe chiến trận ko chỉ tĩnh tâm vững vàng trong buồng lái, nhưng cần cả mưu lược, cởi mở trong việc xử lý các cảnh huống trên thực địa. Có lúc còn phải biết làm “tư vấn” đề nghị với chỉ đạo cấp trên các phương án khai thông lúc tắc đường. Phcửa ải biết giao kèo tác chiến với công binh, với quân nhân phòng ko, phải thông suốt mưu mô và quy luật hoạt động của đối phương trên trời dưới đất để đưa hàng đến đích. Đấy là lời dạy của đại đội trưởng nhưng tôi còn nhớ mãi cho đến hiện thời.
Chiến tranh là phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi lúc lên đường. Người đồng chí thân nhất, đã cùng tôi vào sinh ra tử bao lăm trận đã hy sinh. Anh ra đi như 1 người lính thật sự, chẳng phải hối tiếc.
Hôm đấy, sau 1 đêm vận tải, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi tàu bay ném bom. Dứt đợt oanh tạc của địch, 3 đồng đội công binh gọi anh đi rà soát hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng mà anh ko chịu. Tới nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả bom hất tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng chí cực kỳ tiếc thương.
Mến thương, căm phẫn chính là động lực thôi thúc chúng tôi khao khát giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Để mong ước này biến thành hiện thực, chỉ có 1 cách độc nhất vô nhị là vững vàng tay đua, cầm chắc tay lái. Thành ra thách thức càng ngày càng tăng cao chúng tôi lại càng phấn đấu thắng lợi.
Không thể nhớ hết bao lăm cảnh huống trên đường vận tải. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong khoảng lượn của tàu bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh tạc bắn phá các trọng tâm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Dù đối phương rình rập, đường đi gian nguy, dù có bao lăm hy sinh đi chăng nữa nhưng mà ko gì thể cản bước đoàn xe chạy đến.
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe trĩu nặng chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy đến. Tất cả vì miền Nam cật ruột. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và hợp nhất tổ quốc của dân tộc. Mỗi lúc ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ tới các anh, nhớ tới nhiệm vụ thiêng liêng nhưng nhắc mình giữ vững tay đua, sống và tranh đấu xứng đáng với những người đã mãi mãi ra đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này.
TagsBài thơ về tiểu đội xe ko kính Phạm Tiến Duật Tiểu đội xe ko kính Văn mẫu lớp 9
[rule_2_plain] [rule_3_plain]#Văn #mẫu #lớp #Đóng #vai #người #lính #lái #kể #lại #Bài #thơ #về #tiểu #đội #ko #kính
Văn mẫu lớp 9: Vào vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
Vào vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính gồm dàn ý cụ thể, cùng 7 bài văn mẫu, giúp các em học trò lớp 9 có thêm nhiều ý nghĩ mới để kể lại bài thơ cô đọng, hàm súc nhất. Nhờ ấy, sẽ càng ngày càng học tốt môn Văn 9.
Bài thơ về tiểu đội xe ko kính đã khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn, với tư thế hiên ngang, ý thức sáng sủa, bất chấp mọi gian truân, nguy hiểm. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Vik News:
Dàn ý kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
1. Mở bài
– Giới thiệu bản thân: Tôi là người lính Trường Sơn trong những 5 tháng chống Mỹ.
– Công tác chính của tôi là lái những chiếc xe được phủ cành cây để ngụy trang đối phương.
– Dù cho những 5 tháng đấy rất nặng nhọc, thống khổ, chạy xe xuyên hôm sớm. Ngày chạy xe, đêm cũng ngủ tại xe, những chiếc xe ko kính đấy biến thành những người tri kỉ tri kỷ đi cùng cùng tôi trên chặng đường tranh đấu còn nhiều khó khăn.
2. Thân bài
– Trong những 5 tháng đấy, bom đạn của bọn Mỹ có sức công phá quá gớm ghê nên hầu như chiếc xe nào của binh đoàn cũng rụng và vỡ hết kính. Ví như còn sót lại thì cũng chỉ là những mảnh kính vỡ. Cửa giờ trống hoác nên tự nhiên như ùa vào để những người lính như chúng tôi hưởng thụ vậy. Dù có gian nguy, nặng nhọc nhưng mà chúng tôi vẫn thung dung anh dũng, vẫn hàng ngày lái những chiếc xe tiếp tế ra chiến trận vì non sông thân thương.
– Từ những ô cửa kính vỡ, chúng tôi được hưởng thụ những cơn gió bụi làm mắt cay, ngắm sao trời và những cánh chim bay vụt qua. Đời lính gắn liền với những tuyến đường dài rộng trước mặt, chúng tôi chạy trên những tuyến đường đấy với niềm tin và sứ mạng giải phóng non sông.
– Nói đời lính có những kỷ niệm đẹp chẳng bao giờ sai, lúc những cơn bụi trắng xóa làm chúng tôi bạc trắng cả mái đầu hay những cơn mưa xối xả qua cửa kính vỡ chẳng làm chúng tôi khó chịu hay bất an. Không những vậy, chúng tôi còn trêu nhau là những người già, tiếp diễn chặng hành trình của mình.
– Dù cho có mưa bom bão đạn nguy hiểm, qua những cửa kính vỡ tưởng chừng thêm phần gian truân đấy, chúng tôi lại có thể dễ ợt bắt tay với những người đồng đội trong tiểu đội, Sống trong cộng đồng cùng tranh đấu, cùng sinh sống, chúng tôi mến thương và kết đoàn với nhau.
– Bếp Hoàng Cầm- tượng trưng của bếp dã chiến, nấu bếp ko khói để đối phương ko phát hiện. Chúng tôi đoàn viên như gia đình bên bếp Hoàng Cầm để trò chuyện, ăn uống.
– Dù cho có muôn trùng gian truân, chúng tôi vẫn luôn đi cùng cùng nhau trên những chiếc xe ko kính để giải phóng dân tộc
3. Kết bài
– Cảm tưởng tổng quát của người lính về chiến tranh hiện tại
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 1
Bữa nay tôi có cơ hội cùng đồng chí cũ về thăm chiến trận cũ. Kí ức những 5 đỏ lửa 1968 như ùa về trong tâm não tôi. Đồng chí tôi người còn sống, người mãi nằm lại chiến trận. 1 cơn gió lùa qua tôi, mang theo câu chuyện về những ngày tháng khó khăn nhưng mà hào hùng của dân tộc.
Vào những 5 tháng tranh đấu chống Mỹ tàn khốc, lúc cả nước hướng về miền Nam cật ruột. Chúng tôi là lớp thanh niên, tạm gác bút vở sang 1 bên, nộp đơn xin tòng ngũ. Quyết ko để miền Nam đơn côi trong trận đánh này, tôi đã vào chiến trận, mong muốn đóng góp công lao cùng cả dân tộc “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Vào chiến trận, mỗi người 1 nhiệm vụ chuyên dụng cho cho kháng chiến. Tôi là chiến sĩ lái xe, nhiệm vụ chính là bảo đảm người, vũ khí và tiếp viện từ Miền Bắc vào chiến trận. Hằng ngày, trên chiếc xe của mình, tôi rong ruổi trên khắp chiến trận Miền Nam, tiếp viện thuốc thang, quân tư trang tới những vị trí thiết yếu.
Những 5 tháng tàn khốc 1968. Mỹ như trút bom xuống Trường Sơn, muốn dập tắt ý thức tranh đấu của cả dân tộc. Thế nhưng mà bom Mỹ có đội xuống thế nào, cả dân tộc cũng ko nao lòng. Chúng tôi bên chiếc xe của mình, 1 chiếc xe cực kỳ “ đặc trưng” bảo đảm giao nhận hàng hóa kịp chuyên dụng cho chiến trận.
Dưới áp lực của bom, hàng loạt kính xe của tôi bị vỡ hết. Dù nhiều lần được thay kính mới, nhưng mà chỉ vài ngày lại bị bom Mỹ giật rung cho bể hết kính. Cánh lái xe chúng tôi cũng ko thiết thay kính mới thêm lần nào nữa. Đó thế nhưng kính vỡ cũng có cái hay của nó nhé!
Ngồi trong buồng lái, tôi cảm nhận từng cơn gió lùa vào, xua đi những cơn mệt mỏi, buồn ngủ đang hiện hữu. Con đường hằng ngày nhưng tôi cùng đồng chí đang đi, tuy có bị bom Mỹ hủy hoại dữ dội. Thế nhưng mà tôi chẳng phải nao núng, bởi lẽ tuyến đường đấy còn là lý tưởng cách mệnh, là tuyến đường chính nghĩa cho hòa bình dân tộc.
Ban đêm, cánh lái xe chúng tôi lấy sao trời soi sáng, bánh xe vẫn lăn đều trong đêm. Thật ra 1 phần chúng tôi cũng ko dám mở đèn nhiều, vì sợ tụi Mỹ sẽ thấy nhưng thả bom. Điều kiện hà khắc là thế, nhưng mà chúng tôi ko bao giờ bỏ cuộc hay ca cẩm.
Có những hôm trời nắng, đường khô gió bụi bay vào cay cả mắt, khi bước xuống xe áo quần, mặt mày đều đầy bụi. Những hôm mưa rừng xối xả, ngồi trong xe nhưng vẫn ướt như thường. Cái lạnh của rừng Trường Sơn có thỉnh thoảng như muốn quật ngã chúng tôi.
Cái lạnh thấm vào áo quần, da thịt, lạnh tới run người. Thế nhưng mà chúng tôi vẫn ko ân cần, áo quần ướt đã có gió hong khô. Cánh lái xe chúng tôi đã quá quen với cuộc sống nặng nhọc và hà khắc này.
Thế nhưng mà, vì Miền Nam vì hòa bình dân tộc chúng tôi đã có những khi “ cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”, “cái nhành cây gạt mối riêng tây”. Những nỗi thương nhớ, mong nhớ đều dằn lòng lại. Tuy ở đây chỉ có núi rừng, chuyến xe vào ra liên tiếp, thế nhưng mà tình đồng chí đồng đội của chúng tôi vẫn luôn gắn bó.
Công tác liên tiếp, xe chạy ngày đêm để kịp tiếp viện cho Miền Nam, cánh lái xe chúng tôi chỉ có thể chào nhau bằng cái bắt tay vội vã qua ô cửa xe đã vỡ. Cái bắt tay như tiếp thêm sức mạnh, nhưng mà thỉnh thoảng cũng là cái bắt tay rốt cuộc. Chiến tranh nhưng, cái chết luôn nằm ở trên đầu, nhưng mà chúng tôi vẫn chẳng phải nao lòng.
với cánh lái xe chúng tôi, thú vui là lúc hàng hóa giao tới nơi an toàn. Từ trong bom đạn, trông thấy đồng chí của mình vẫn nguyên lành, cùng ngồi với nhau bên bếp Hoàng Cầm. Bữa ăn của lính tuy thanh đạm, đơn sơ nhưng mà đầy tình cảm.
Chúng tôi ngồi lại kể chuyện nhau nghe, kể về bức thư nhà, ruộng đồng, mùa vụ. Kể về những tuyến đường đã đi qua, những nặng nhọc gian truân nhưng chúng tôi gặp phải. Rồi chúng tôi cùng nuôi bự kì vọng về hòa bình, độc lập vào 1 ngày gần nhất. Chiếc võng mắc vội nằm ghé lưng bên bìa rừng, tôi tranh thủ chợp mắt cho chuyến xe sắp đến.
Tuy ko trực tiếp cầm súng tranh đấu như những đồng chí khác. Những lái xe chúng tôi vẫn đóng góp công lao và có khi cả tính mệnh. Không biết bao lăm đồng chí của tôi đã nằm lại trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn. Thế nhưng mà, chuyến xe tiếp viện cho Miền Nam ko lúc nào bị đứt mạch. Bởi lẽ những chuyến hàng là cả niềm tin và sức mạnh nhưng đồng bào Miền Bắc gửi gắm cho chiến trận Miền Nam.
Chiếc xe cho dù ko thùng, ko kính, bị bom Mỹ khiến cho lệch lạc. Thế nhưng mà cũng thể nào làm suy dời ý chí của chúng tôi. Chiếc xe của chúng tôi vẫn luôn chạy vì Miền Nam phía trước và cũng vì trong xe vẫn có “ 1 trái tim”.
Chiến tranh đã lùi xa, ngày bữa nay tôi cùng đồng chí của mình tìm về chiến trận xưa. Những chiếc xe 5 nào đã nằm yên trong viện cơ quan sưu tầm, tiểu đội xe ko kính 5 nào người còn, kẻ nằm mãi nơi Trường Sơn. Tôi cùng đồng chí xưa vẫn chẳng thể nào quên 5 tháng khó khăn nhưng mà hào hùng đấy. Tôi luôn mong muốn lớp thanh niên hiện tại, luôn tiếp bước và thắp sáng tuyến đường nhưng lớp cha anh đã ngã xuống để giữ giàng.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 2
Tiểu đội xe chuyển vận của tôi có đặc điểm chung là ko chiếc xe nào có kính. Qua bao trận mưa bom trên đường chở hàng ra tiền phương, kính xe đã vỡ hết cả. Cánh lái xe chúng tôi vẫn thung dung ngồi trong buồng lái, tha hồ nhìn đất, nhìn trời và nhìn thẳng tuyến đường hướng vào chiến trận miền Nam đang đánh Mỹ.
Không có kính, gió thả phanh ùa vào buồng lái. Gió thổi làm mắt cay xè nhưng mà không hề chi, chúng tôi vẫn nhìn rõ tuyến đường đất đỏ như son như đang chạy thẳng vào tim. Ban ngày thì những cánh chim rừng, đêm hôm thì những tại sao sáng như đột ngột sa vào, ùa vào buồng lái.
Lái xe trên đường Trường Sơn là công tác vô cùng gian truân, gian nguy. Trời mưa, ngồi trong xe nhưng ướt đầm như ngoài trời. Mặc! Chúng tôi vẫn cho xe chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Mưa mãi thì cũng phải tạnh. Gió lùa, áo quần sẽ mau khô thôi. Mưa đã cực, nắng cũng chẳng sướng gì hơn. Đất Trường Sơn khô rang dưới cái nắng như nung. Đoàn xe đi qua, bụi đỏ tung mù trời giống cơn lốc cuốn. Quần áo, đầu tóc chúng tôi bụi phun trắng xoá, trông chẳng khác người già. Bụi mặc bụi, xe vẫn cứ chạy. Tới cánh rừng nào ấy có suối, có khe, chúng tôi ngừng lại rửa mặt, nhìn nhau anh nọ cười anh kia mặt lấm, tiếng cười ha ha vang rộn, trẻ trung, yêu đời biết mấy!
Trcửa ải qua những 5 tháng chiến tranh tàn khốc, những chiếc xe từ trong bom rơi đã về đây họp thành tiểu đội xe ko kính. Trên đường Trường Sơn, chúng tôi gặp nhau, những cái bắt tay thật chặt nồng ấm tình đồng chí, truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tất cả đều trình bày phấn đấu giải phóng miền Nam, hợp nhất tổ quốc, tiến hành ý nguyện khẩn thiết của Bác Hồ – vị Cha già dân tộc, trước khi Người đi xa.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 3
Trong buổi gặp mặt nhân ngày quân đội dân chúng Việt Nam, tôi đã trùng hợp gặp lại sức bạn xưa cùng chung tiểu đội trên những chiếc xe ko kính ở con đường Trường Sơn làm nhiệm vụ vận tải tiếp viện cho miền Nam. Chúng tôi tay bắt mặt mừng và mọi người đề nghị tôi kể lại những tháng ngày đấy.
Tôi còn nhớ trên tuyến đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc nhưng chúng tôi lái trên những chiếc xe lại là nơi bom đạn giật tung dữ dội tàn khốc. Nhiệm vụ của tôi là vận tải lương thực, vũ khí, bom đạn của Mỹ đã biến những chiếc xe ko còn có kính. Tôi đã đích thực thông suốt hơn về những gian khó thống khổ nhưng chúng tôi đã phải chịu ngày chịu đêm ko lùi bước tôi vẫn thung dung lái xe đi đến những chặng đường, luôn nghe âm thanh của bom liên tiếp gào thét. Trên 1 chiếc xe ko kính, tôi đã trông thấy được trời, trông thấy cả đất và những ánh sao đêm. Tôi nhìn thẳng về phía trước, vì phía đấy chính là mai sau của tổ quốc, là miền nam cật ruột quê hương tôi.
Tôi vẫn lái dù bụi có phun làm mái tóc phát triển thành trắng xóa, chúng tôi vẫn không lo nghĩ phì phà điếu thuốc và cất tiếng cười lúc nhìn mặt nhau. Khó khăn khó khăn hay bom đạn của đối phương không thể nào làm tôi nản lòng, thoái chí. Những chiếc xe ko kính cứ tiếp diễn đi và đi trên những con đường ra trận, mưa tuôn mưa xối ướt hết cả áo nhưng mà tôi vẫn phấn đấu lái trăm cây số nữa vượt qua những chặng đường gian nguy để bảo đảm an toàn cho mọi thứ tôi đang vận tải. Và tôi nghĩ lúc mưa dừng, có gió lùa vào rồi thì sẽ mau khô thôi.
Càng đi càng đi, tôi càng gặp được nhiều anh em đồng chí của mình dù bom đạn của Mỹ vẫn giật tung sát bên tai. Cái chết luôn rình rập nhưng mà tôi vẫn luôn sáng sủa yêu đời. Ngày đấy cũng có người hy sinh, nên thành ra, lúc tôi gặp lại sức bạn 5 xưa thì mọi kí ức kỉ niệm chợt ùa về khiến tôi ham mê kể lại.
Những phút giây hiếm hoi lúc gặp lại đồng chí, cái bắt tay qua cửa kính bể rồi làm tôi đượm đà hơn. Những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, mọi cái bát cái đũa dùng chung như 1 đại gia đình bự của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi phút giây được ngơi nghỉ trên những chiếc võng mắc cheo leo ngoài đường, kể nhau nghe mọi sự tàn khốc trên những tuyến đường đã đi qua. Càng kể tôi càng thấy yêu đồng chí mình hơn, bom đạn của Mỹ có thể hạ xuống trong khi chúng tôi đang làm nhiệm vụ. Chiếc xe ko chỉ mất kính, cơ mà còn ko có đèn, thùng xe thì rách xước nhưng mà những thiếu thốn này vẫn không thể cản được chúng tôi tiến đến miền Nam cật ruột. Và những chuyến hàng của tôi cũng đã góp phần hình thành thắng lợi của dân tộc.
Tới hiện thời tôi vẫn còn rất kiêu hãnh vì đã lái những chiếc xe ko kính làm nhiệm vụ tiếp viện cho miền Nam, góp phần ko bé vào trận đấu đấu giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Tôi vẫn ko quên nhắc nhở con cháu của mình là phải hàm ân các lứa tuổi trước, phải luôn hoài tưởng những con người đã hi sinh “Uống nước nhớ nguồn”.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 4
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội dân chúng Việt Nam – ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử tranh đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và chuyện trò. Trong đoàn đại biểu ấy, tôi bắt gặp 1 người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã tới gặp và có cuộc trò chuyện thú vị với ông.
Các bạn có nhẽ chẳng thể tưởng tượng được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi 5 xưa giờ đĩnh đạc, tôn nghiêm trong bộ binh phục mới. Ông có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng 5, gương mặt tuy đã già dặn nhưng mà vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua chuyện trò, có thể thấy ông là người rất vui tính, đon đả, đặc trưng là lúc ông kể cho tôi về cuộc đời người lính trên con đường Trường Sơn 5 đấy. Ông kể rằng vào 5 1969 là – 5 nhưng Mỹ đánh phá rất tàn khốc trên con đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ phấn đấu phá cho bằng được con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Nam – Bắc. Chúng thả hàng nghìn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng ngàn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ tuyến đường. Tuy Mỹ đánh phá tàn khốc thật, nhưng mà những đoàn xe chuyển vận vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên tuyến đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trận miền Nam. Kể 1 khi, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
– Cháu thấy đó, trong trận đấu đấu chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, gian truân. Những 5 tháng tàn khốc ấy đã khắc hoạ cả 1 thời đoạn lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên con đường Trường Sơn giặc Mỹ đánh phá cực kỳ tàn khốc; bom Mỹ cày xới đất đai, phá hỏng những tuyến đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao lăm những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng ko vì “bom rơi đạn lạc” tương tự nhưng chúng ta lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền phương, đi trong bóng đêm theo sự chỉ dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát xuất hiện, ta chuyển vận qua rừng, bọn chúng đã thả bom để ko cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc trưng hơn cả là đoàn xe chuyển vận ko có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy gian nguy như thế nhưng chúng ta vẫn kết thúc tốt nhiệm vụ đánh Mỹ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mỹ với bao lăm thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng mà chúng ta đã vượt qua những khó khăn để đánh chúng..
Ông ngừng lại 1 khi rồi lại kể tiếp:
– Ta còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, ko có vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao lăm là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế nhưng ko người nào cần rửa, phì phà châm điếu thuốc hút ngang nhiên, người nào nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng là tương tự nhưng mà tới khi mưa thì còn khổ hơn, trời mưa như trút nước thế nhưng mà chúng ta vẫn cầm tay lái lái 1 cách tích cực hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi áo quần lại khô thôi. Xe ko kính cũng là 1 thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, ko gian bao la hào phóng như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều trông thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim.Mỗi lúc giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, chúng ta nghĩ từng chung bát chung đũa nghĩa là 1 gia đình, là người trong 1 nhà rồi đó cháu ạ.
Được nghe ông kể những nặng nhọc đấy tôi thật bái phục hơn tình đồng đội đồng chí, lòng can đảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm ước mơ trên toàn cầu ko còn chiến tranh để cuộc sống mãi yên bình.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 5
Tôi vừa đưa chiếc xe đạp vào khoảng sân hẹp thì đã nghe vọng ra tiếng cười giòn giã của bố tôi và 1 vị khách. Đấy vững chắc là 1 vị khách quý bởi vì ít lúc có sự ầm ĩ, nhộn nhịp như thế ở người cha hiền từ nhưng mà khi nào cũng lặng thầm của tôi.
Tôi bước vội vào nhà. Bố tôi cùng người khách hướng ánh nhìn rạng rỡ, trìu mến đón tôi:
– Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học hồi trung học với bố, lại cùng bố tòng ngũ.Bác là chiến sĩ lái xe Trường Sơn 5 xưa đó con ạ!
Bác Trực trạc tuổi bố tôi. Khuôn mặt bác cương nghị nhưng mà lại rất phúc hậu. Đôi mắt tuy đã hằn nhiều vết chân chim nhưng mà vẫn ánh lên những tia vui vẻ và trìu mến. Tôi có đang nằm mộng ko nhỉ? Tôi vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật. Những lời thơ, những lời cô giảng và hình ảnh người chiến sĩ lái xe can đảm, kiên định cứ đọng mãi trong tâm não tôi. Giờ đây, tôi đang được đứng trước 1 người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thực sự. Thật là 1 may mắn ko ngờ. Tôi rối rít:
– Bố ơi! Bác ơi! Con có thể được ngồi với bố và bác 1 lát để biết thêm về những tháng ngày tranh đấu 5 xưa được ko ạ?
Bác cười và đáp:
– Sao lại ko? Đấy là khoảng thời kì cuốn hút nhất của bố cháu và bác.
– Thưa bác, bác chính là người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, người lính nhưng cháu đã được học trong “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của thi sĩ Phạm Tiến Duật, phải ko bác?
– Ồ, bài thơ đấy nổi danh lắm cháu à. Ngày ấy, có nhẽ lính lái xe Trường Sơn ít người nào là ko biết bài thơ đấy. Nó nói hộ phần nào khát vọng tranh đấu, những khó khăn, lòng can đảm và sự sáng sủa của những người lính như bác.
– Chính bác cũng đã từng lái những chiếc xe ko kính đấy phải ko ạ?
– Không phải “đã từng” đâu cháu ạ. Nhưng là bác luôn lái những chiếc xe bị xước, bị va đập, bị bom đạn khiến cho rơi vỡ, lệch lạc những bộ phận bên ngoài như thế. Chiến tranh nhưng cháu!
Để bác kể rõ hơn cho cháu hiểu nhé. Ngày ấy, bác lái xe tải, cùng đồng chí chuyển vận lương thực, thuốc thang, khí tài… vào chiến trận miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng trời, khó khăn lắm cháu ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng muốn san phẳng tất cả, cắt đứt tuyến đường huyết mạch nối tiếp Bắc Nam đấy. Tiểu đội xe của bác ban sơ được trang bị toàn xe mới để chuyên dụng cho chiến trận. Khi ấy, xe có kính như vô vàn chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn nứt, tiêu hao hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt nhiều cũng dằng dịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên lành cháu à.
Tôi vẫn còn tò mò, tiếp diễn hỏi bố:
– Lái xe ko kính, ko mui, ko đèn như thế chắc gian nguy lắm bác nhỉ?
Bác sôi nổi tiếp lời:
– Nguy hiểm lắm, cái sống cái chết khi nào cũng trong tấc gang. Lái xe ko kính thì mối gian nguy gần nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt, vào áo quần. Bụi chi chít tới mức mắt cay xè, chẳng thể mở nổi. Khi đấy, râu, tóc, áo quần và cả xe rực lên 1 màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất thần. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt đầm nước mưa. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp trăm nghìn lần. Thế nhưng mà, những người lính lái xe như bác ko bao giờ ngừng lại, luôn phải tranh thủ tránh giờ cao điểm cháu ạ. Cũng vì xe ko kính nên mưa gió vứt vào cabin đủ thứ, nào là lá rừng, nào là cành cây gãy… Bác đã bao lần bị cành cây cứa vào mặt, vào tay cầm tay lái, đau rát cực kỳ. Gian khổ là thế đó cháu. Mỗi chuyến chở hàng về đến đích thật sự là 1 kỳ tích. Vậy nhưng ký tích vẫn luôn hiện ra.
Bác mỉm cười, gương mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và kiêu hãnh. Lời bác kể như chất chứa bao tâm huyết, bao sôi nổi của 1 thời tuổi xanh nơi chiến trận. Bác nghe đâu đang được sống lại những giây phút lịch sử đấy. Không hiểu sao ngay khi này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đấy chính là 1 thực tiễn ở chiến trận ngày đấy. Thế nhưng, những người lính cụ Hồ vẫn chứa chan sáng sủa, yêu đời, và tin cậy vào 1 mai sau thắng lợi.
Tôi chợt thấy bác Trực trầm tư, ánh mắt xa xăm như đang lạc trong dòng hồi ức. Còn bố tôi thì ngồi lặng thầm, gương mặt đầy vẻ xúc động. Bác Trực chợt nói:
– Xe ko kính thế cơ mà hay cháu ạ. Gặp bạn cũ, gặp đồng chí, gặp đồng hương đều tay bắt mặt mừng qua ô kính vỡ. Giữa đại nghìn mênh mang, bác chợt thấy lòng mình ấm lại vì được tranh đấu kế bên những đồng đội mến thương.
Giọng bác chợt rung lên, đầy xúc động:
– Cháu chẳng thể hiểu tình đồng đội thiêng liêng, quý giá thế nào với người lính các bác đâu. Ngừng xe, ghé vào 1 bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là thấy không xa lạ như anh em 1 nhà. Dù giây lát nữa thôi, mỗi người sẽ đi mỗi hướng, có lúc chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa chiến trận tàn khốc. Bác và 3 cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng mà bao lăm đồng chí của bác đã ngã xuống. Có 1 đồng chí của bác đã hy sinh ngay sau tay lái vì phấn đấu lái xe vượt qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Ngày đấy, khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc ghi trong tim những người lính lái xe. Dù có hy sinh, các bác vẫn phấn đấu bảo vệ xe và hàng.
Bác chợt yên lặng. Không khí cả căn phòng bỗng chốc phát triển thành thật nghiêm trang.
Trong tôi bỗng trào dâng 1 xúc cảm thật kỳ lạ, vừa bái phục, vừa kiêu hãnh. Ngày bữa nay tôi đã hiểu thêm rất nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết tới cuộc sống êm ả trong khoảng tay ấm áp, che chở của gia đình, thầy cô trong 1 tổ quốc hòa bình. Đấy là thành tựu của bao lứa tuổi cha anh đã nặng nhọc, hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác tôi và những người tôi chưa từng gặp gỡ. Tôi phải thật trân trọng cuộc sống hòa bình này và phấn đấu trau dồi, hoàn thiện để góp phần xây dựng tổ quốc thêm tươi đẹp trong thời đại mới.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 6
Tôi là người lính lái xe trên con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối tiếp 2 miền Bắc và Nam. Trong suốt những 5 tháng kháng chiến chống Mỹ khó khăn, chúng tôi – những người lính lái xe vẫn giữ vững tay đua để kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ: vận tải lương thực, vũ khí và đạn dược vào chiến trận thảm khốc.
Trên quãng đường Trường Sơn, những chiếc xe vốn nguyên lành lại bị bom đạn của đối phương hủy diệt, biến thành những chiếc xe ko kính. Nhưng chúng tôi – những người lính lái xe vẫn thung dung ngồi trước buông lái. Những chiếc xe ko kính còn tạo điều kiện cho chúng tôi thêm hòa hợp với tự nhiên hơn. Từ gió trời, tuyến đường tới cánh chim giống như đang ùa vào buồng lái để chào hỏi. Những chiếc xe ko kính làm cho hành trình thêm gian truân. Đấy là bụi đường làm mái tóc trắng như người già. Chúng tôi chẳng cần rửa, cứ thế phì phà châm điếu thuốc và nhìn nhau cười vui vẻ. Đấy là mưa tuôn, mưa xối giống như đang đứng ở ngoài trời. Chúng tôi chẳng cần thay áo, cứ thế lái xe vài trăm cây số, để gió lùa vào rồi áo cũng sẽ khô.
Những chiếc xe ko kính đã họp thành 1 tiểu đội xe ko kính. Chúng tôi gặp mặt trên hành trình đấy. Tất cả giống như những người bạn lâu ngày ko gặp, bắt tay nhau và mỉm cười chào hỏi. Rồi tới lúc đêm về, dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời. Cùng nhau ăn uống, cùng nhau chuyện trò giống như 1 đại gia đình. Tình cảm đồng chí giữa những người lính lái xe cũng giống như tình thân – thâm thúy và đượm đà.
Dù những bộ phận quan trọng nhất của chiếc xe đều bị tàn phá. Xe ko có kính, ko có cả mui xe và hỏng cả đèn xe. Nhưng những chiếc xe vẫn cứ băng băng trên khắp mọi nẻo đường Trường Sơn. Bởi vì trong xe có 1 “1 trái tim” – trái tim yêu đời với tâm huyết cách mệnh của người lính lái xe. Hình ảnh “1 trái tim” biểu tượng cho lòng căm phẫn giặc thâm thúy của chúng tôi. Cùng lúc nó còn là tượng trưng cho tâm huyết cách mệnh, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe ko kính – Mẫu 7
Bước vào 5 1969, trận đấu thảm khốc và căng thẳng hơn. Sau thất bại trong chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ khởi đầu thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Thực hiện chế độ này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trận Đông Dương và tăng mạnh tuyển mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Cùng lúc, chúng thực hiện các chiến lược bình định trên toàn miền Nam. 1 ko khí khủng bố cực kỳ căng thẳng bao trùm lên khắp miền bờ cõi. Nhiệm vụ tranh đấu giải phóng miền Nam cũng đương đầu với những gian truân cực kỳ bự. Không để miền Nam đơn côi trong trận đấu đấu tàn khốc với đối phương, quân và dân miền Bắc gắng vô cùng mình tiếp viện và cùng quân dân miền Nam quả cảm tranh đấu.
Tôi là 1 chiến sĩ lái xe. Cuối 5 1968, tôi được điều động về đại đội 1 oto chuyển vận, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của đại đội là vận tải những chuyến hàng vào chiến trận miền Nam. Không những đưa hàng hóa tới tận chiến trận, chuyên dụng cho mau chóng và kịp thời cho trận đấu đấu, chúng tôi còn phải hỗ trợ quân trang, quân dụng, thuốc thang và những thứ thiết yếu khác nhưng quân và dân miền Nam đang cần.
Trong những 5 gian truân đấy, dân chúng miền Bắc đã dốc vô cùng mình vì miền Nam cật ruột. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và hợp nhất tổ quốc nhưng bà con miền Bắc đã ko quản ngại khó khăn hy sinh. Tầng lớp thanh niên đã tích cực lên đường tham dự tranh đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hẹn xong nhiệm vụ với non sông mới trở về.
Bao nhiêu nông sản nhận được, dân chúng chỉ giữ lại phần ít. Phần bự còn lại gửi vào miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn thu được sự cung cấp của các nước anh em ủng hộ trận đấu. Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe nối đuôi nhau ngược xuôi trên con đường Trường Sơn, sôi động như mùa hội. Tấm tâm thành của dân chúng miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng ko hết.
5 đấy, phát hiện con đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ thực hiện đánh phá tàn khốc. Chúng rải thảm bom đạn nhằm chặn đứng dòng chi viện. Con đường bị cày xới dữ dội. Rất nhiều đồng chí của tôi đã hy sinh. Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của đối phương ko chiếc nào còn nguyên lành. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom. Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị biến dạng gớm ghê.
Thế nhưng mà, chúng tôi chẳng phải nản chí. Các đồng đội cổ vũ nhắc nhở nhau cùng hẹn sẽ giữ vững tay đua, kết thúc hoàn hảo nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì ta sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền phương. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ diệu kì nối tiếp miền Nam, miền Bắc. Nơi đâu cũng sôi động bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập hợp về đây để bảo vệ con đường, bảo vệ huyết quản của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe ko kính, cả bầu trời như tới gần với tôi. Dù trời ko có gió nhưng mà hề xe chạy thì gió cứ thế nhưng lùa vào ồ ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả 2 mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng ngược hẳn lên như vừa được bôi 1 thứ keo dán tóc nào ấy. Ban đêm xe chạy, sao sáng vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì ko bị kính che mờ. Những cánh chim trời nghịch ngợm cứ bay ngay buồng lái. Đôi lúc chúng làm tôi khiếp vía vì ngỡ bóng tàu bay của địch.
Sợ nhất vẫn là bụi đường. Không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tóc lẫn mặt mày của chúng tôi như trát 1 lớp phấn trắng. Chỉ còn 2 con mắt là khác màu thôi. Mỗi lần ngơi nghỉ, nhìn các chiến sĩ người nào cũng bạc phết nhưng cười ngây ngất. Hết bụi thì tới mưa. Mưa rừng trường Sơn đột ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước, cơn mưa từ đâu phía bên kia núi ào ào kéo tới trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế nhưng tuôn, nhưng xối vào. Ngồi trong xe nhưng tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng mưa cứ kệ mưa. Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải ngơi nghỉ luộm thuộm. Cuộc sống như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi nhưng quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng chí khắp muôn phương cùng nhau tụ hội. Những đoàn xe nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và cổ vũ nhau. Tôi chúc mừng các anh đã kết thúc nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về cổ vũ và cầu chúc tôi may mắn.
Những cuộc ngừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái tim. Dù ở những đơn vị không giống nhau, từ nhiều vùng quê của tổ quốc, nhưng mà gặp nhau ở đây, chúng bếp lửa hồng, chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng đội cả.
Đường Trường Sơn được xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thử thách mọi ý thức. Những con dốc cao tới nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt qua con dốc cực kỳ hiểm trở. Con dốc lừng lững thử thách các đồng đội lái xe đã từng vận tải hàng hóa trên cung đường này.
Đêm đấy trời mưa lớn, đường bị xói lở nhiều. Đại đội trưởng lệnh chúng tôi ngừng lại tìm nơi ẩn náu. Tới đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng chúng tôi đang ở giữa vùng trống, ko có nơi ẩn náu an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm trời cứ mưa thế này, tới đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn xe vượt dốc. Sau phút nghĩ suy, đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe tiên phong. Lấy hết tĩnh tâm, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy đến. Biết mặt đất trơn, tôi phấn đấu giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe kiên cố. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vượt qua nhưng mà chẳng thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng mà mặt đường như rải dầu trơn nhoài tuột. Đuôi xe lệch về 1 bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là con vực sâu tới ngàn mét.
“Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm mong có 1 sức mạnh nào ấy nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội trưởng thét bự: “Cho xe lao lên mau!”. Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy vô cùng đạp mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng rào rào 2 bên. Tiếng xe gầm thét dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc. Tôi hít 1 hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay tay lái đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi cũng đưa xe lên tới đỉnh dốc an toàn. Bước xuống xe, tôi thở phào nhẹ nhàng.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng chí mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động cực kỳ. Thì ra, lúc thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá kê. Mỗi người 1 hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này tới hòn khác cho tới lúc xe lên hẳn trên dốc. Đêm đấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ lanh lợi của đồng chí, kịp đưa xe về nơi trú ẩn an toàn.
Tĩnh tâm, anh dũng, xử lý các cảnh huống nhanh lẹ, chuẩn xác là những nhân tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe chiến trận ko chỉ tĩnh tâm vững vàng trong buồng lái, nhưng cần cả mưu lược, cởi mở trong việc xử lý các cảnh huống trên thực địa. Có lúc còn phải biết làm “tư vấn” đề nghị với chỉ đạo cấp trên các phương án khai thông lúc tắc đường. Phcửa ải biết giao kèo tác chiến với công binh, với quân nhân phòng ko, phải thông suốt mưu mô và quy luật hoạt động của đối phương trên trời dưới đất để đưa hàng đến đích. Đấy là lời dạy của đại đội trưởng nhưng tôi còn nhớ mãi cho đến hiện thời.
Chiến tranh là phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi lúc lên đường. Người đồng chí thân nhất, đã cùng tôi vào sinh ra tử bao lăm trận đã hy sinh. Anh ra đi như 1 người lính thật sự, chẳng phải hối tiếc.
Hôm đấy, sau 1 đêm vận tải, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi tàu bay ném bom. Dứt đợt oanh tạc của địch, 3 đồng đội công binh gọi anh đi rà soát hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng mà anh ko chịu. Tới nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả bom hất tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng chí cực kỳ tiếc thương.
Mến thương, căm phẫn chính là động lực thôi thúc chúng tôi khao khát giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Để mong ước này biến thành hiện thực, chỉ có 1 cách độc nhất vô nhị là vững vàng tay đua, cầm chắc tay lái. Thành ra thách thức càng ngày càng tăng cao chúng tôi lại càng phấn đấu thắng lợi.
Không thể nhớ hết bao lăm cảnh huống trên đường vận tải. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong khoảng lượn của tàu bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh tạc bắn phá các trọng tâm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Dù đối phương rình rập, đường đi gian nguy, dù có bao lăm hy sinh đi chăng nữa nhưng mà ko gì thể cản bước đoàn xe chạy đến.
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe trĩu nặng chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy đến. Tất cả vì miền Nam cật ruột. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và hợp nhất tổ quốc của dân tộc. Mỗi lúc ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ tới các anh, nhớ tới nhiệm vụ thiêng liêng nhưng nhắc mình giữ vững tay đua, sống và tranh đấu xứng đáng với những người đã mãi mãi ra đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này.
TagsBài thơ về tiểu đội xe ko kính Phạm Tiến Duật Tiểu đội xe ko kính Văn mẫu lớp 9
[rule_2_plain] [rule_3_plain]#Văn #mẫu #lớp #Đóng #vai #người #lính #lái #kể #lại #Bài #thơ #về #tiểu #đội #ko #kính
#Văn #mẫu #lớp #Đóng #vai #người #lính #lái #kể #lại #Bài #thơ #về #tiểu #đội #ko #kính
Vik News